Kĩ năng dạy tập đọc cho học sinh lớp 4& 5

Kĩ năng dạy tập đọc cho học sinh lớp 4& 5

I.1. Lí do chọn đề tài:

 Xuất phát từ yêu cầu đạt ra trong quá trình triển khai thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học và giáo dục kĩ năng sống ở môn tập đọc hiện nay.

 Mục tiêu giáo dục tiểu học giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên trung học cơ sở. Giáo dục Tiểu học nhằm đảm bảo cho học sinh có những hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người, có kĩ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, những hiểu biết ban đầu về múa, hát, âm nhạc và mĩ thuật. Giáo dục tiểu học trước hết phải làm cho học sinh thích đi học, thích đến trường, yêu trường, yêu lớp, yêu thầy cô giáo, yêu quý bạn bè và cảm thấy mỗi ngày đến trường là một ngày vui.

 Giáo dục hiện nay là giúp học sinh học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống. Trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt động hàng ngày. Từ những hành vi cố định, chuẩn mực trong các bài học học sinh xây dựng và hình thành những kĩ năng sống cho mình phù hợp trong đời sống hàng ngày, giúp các em phát triển hài hoà về thể chất, trí tuệ và đạo đức.

 

  1. Xuất phát từ định hướng về đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học.

  Phương pháp dạy tập đọc của học sinh lớp 4&5 cơ bản giống nhau chỉ khác nhau về khối lượng chữ trong bài tập đọc mà thôi vì thế phương pháp dạy đọc của lớp 4 cũng như lớp 5.

 Trong những năm gần đây vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học đã được Bộ giáo dục và Đào tạo, phòng giáo dục các cấp chỉ đạo cũng như giáo viên trực tiếp giảng dạy đặc biệt quan tâm.

 Đổi mới phương pháp dạy học có thể hiểu là tìm con đường ngắn nhất để đạt chất lượng và hiệu quả cao nhất. Con đường này không có sẵn, không bằng phẳng mà đầy khó khăn, khúc khuỷu, gập ghềnh với sự đan xen giữa cái chung và cái riêng, cái cũ và cái mới. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học bao gồm cả hai mặt: Phải đưa vào các phương pháp dạy học mới đồng thời tích cực phát huy những ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống. Lý luận dạy học đã khẳng định không có phương pháp nào là vạn năng, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, yếu tố kinh nghiệm và sự kế thừa thể hiện khá đậm nét. Đổi mới phương pháp dạy học là sự kết hợp nhuần nhuyễn sáng tạo giữa kinh nghiệm của giáo viên với những yếu tố mới của phương pháp dạy học hiện đại. Với cách nhìn từ phương pháp mới, giáo viên có thể thực hiện việc cải tiến phương pháp dạy học nói chung và môn Tiếng Việt lớp 4&5 nói riêng nhằm gây hứng thú học tập, tạo niềm tin, niềm vui bằng sự hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt: nghe, nói, đọc, viết, hiểu, để học sinh giao tiếp. Thông qua việc dạy Tiếng Việt góp phần rèn luyện thao tác tư duy. Tiếng Việt là tiếng ghi âm, nghĩa là viết như thế nào thì đọc như thế ấy, có đọc được thì mới hiểu được nội dung. Vì thế phân môn Tập đọc có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình Tiểu học. Nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc, một kĩ năng quan trọng hàng đầu của học sinh Tiểu học đồng thời làm cơ sở, nền móng cho mọi sự phát triển. Đọc trở thành nhiệm vụ cấp thiết của mỗi người đi học. Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây họ biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội.

 Nhờ đọc mà con người bày tỏ ý kiến của mình. Từ đó con người có điều kiện tự học và hiểu biết các môn học khác. Như vậy có thể khẳng định rằng đọc là cầu nối của mọi tri thức, của mọi môn học. Đọc chính là học, học nữa, học mãi, học cả đời, đọc để tự học. Bởi vậy dạy cho học sinh biết đọc, đọc đúng, đọc- hiểu, đọc thuộc lòng và đọc diễn cảm là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng.

 

  1. Xuất phát từ thực trạng việc dạy đọc ở trường tiểu học Kim Đồng hiện nay.

 Trong thực tế hiện nay, việc dạy đọc, bên cạnh những thành công, còn nhiều hạn chế. Học sinh của chúng ta chưa đọc được như mong muốn, kết quả đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kĩ năng đọc. Các giờ tập đọc thì hầu như học sinh chỉ mới biết đọc đúng, đọc trơn, số lượng học sinh biết đọc diễn cảm tốt còn rất hữu hạn. Giáo viên tiểu học còn khuôn mẫu khi dạy tập đọc đồng thời những phương pháp cụ thể hướng dẫn rèn đọc diễn cảm cho học sinh tiểu học cũng rất ít được quan tâm.

 Vậy để giúp học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm, hiểu và cảm thụ được bài văn, bài thơ thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng mới đó là: Mọi học sinh đều phải tích cực tham gia vào hoạt động học tập.

 Do vậy với mong muốn làm thế nào chất lượng đọc đúng, đọc diễn cảm của học sinh lớp 4&5 ngày càng nâng cao, tôi đã chọn đề tài “Kĩ năng dạy tập đọc cho học sinh lớp 4 & 5” làm đề tài nghiên cứu.

  1. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.

b.1. Hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng một cách linh hoạt, khéo léo:

 Như chúng ta đã biết đọc diễn cảm chỉ thực hiện được trên cơ sở học sinh đã đọc đúng và đọc lưu loát. Đọc đúng không đọc thừa, không sót tiếng. Đọc đúng phải thể hiện được hệ thống ngôn ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Bởi vậy việc rèn cho học sinh luyện đọc đúng là khâu đầu tiên của việc rèn đọc diễn cảm và đã thực hiện ở các lớp  2, 3. Đối với học sinh lớp 4- 5 thì việc luyện đọc đúng được rèn luyện như sau:

– Luyện đọc đúng:

  Luyện đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không sót từng âm, vần, tiếng. Đọc đúng phải thể hiện đúng hệ thống ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Khi hướng dẫn các em học sinh dân tộc Tày, Nùng và Ê Đê trong lớp đọc thì cần uốn nắn thêm ngữ âm tiếng mẹ đẻ cho chuẩn với Tiếng Việt. Hướng dẫn các em đọc đúng ban đầu hướng dẫn các em đọc đúng các âm, rồi đọc đúng các  thanh, dừng, nghỉ, ngắt hơi đúng dấu câu, đúng chỗ.

 + Luyện đọc đúng các phụ âm đầu: Giáo viên cần nắm bắt xem trong lớp có những học sinh nào đọc sai phụ âm đầu nào thì sửa lỗi của âm đầu ấy cho em đó không nên thực hiện tràn lan mất thời gian cho các phần khác. Ví dụ: “theo rõi”, “đánh dăng”, “phào nớp”, …mà phải đọc “theo dõi”, “đánh răng”, “vào lớp”.

 + Luyện đọc đúng các âm chính: Giáo viên phải có những điều tra tổng hợp trong lớp để có kết quả xem những học sinh nào còn đọc sai những âm chính nào để hướng đẫn cho các em đó và học sinh trong lớp cùng thực hiện ví dụ như sửa cho các em để không đọc: “iu tin” (hs người Thanh Hóa), “mua riệu” (hs người Tày), “đoọc sách”; “đi hoọc” (hs người Ê Đê), …mà phải đọc “ưu tiên”, “mua rượu”, “đọc sách”; “đi học”.

 + Luyện đọc đúng các âm cuối: Cần có những theo dõi để có nhận biết xem học sinh nào hay đọc sai âm cuối để lấy những ví dụ sửa lỗi cho các em trong các tiết tập đọc chẳng hạn: “con rén”, “he bao”, “ngày mei”, …mà phải đọc “con rắn”, “hai bao”, “ngày mai”.

 + Luyện đọc đúng các thanh: Phần này các em học sinh người dân tộc Ê Đê và người Tay hay có lỗi phát âm sai về dấu thanh do đó giáo viên cần nắm bắt để sửa lỗi cho các em ví dụ như: không đọc thanh (~) nhầm với thanh (?); thanh (~) với thanh (.).

 – Trước khi tiến hành luyện đọc, giáo viên cần chia văn bản thành các đoạn đọc mà giáo viên căn cứ vào trình độ đọc của học sinh trong lớp để chia văn bản thành các đoạn, sao cho các đoạn không quá dài hoặc quá chênh lệch nhau về số chữ, cách ngắt đoạn không quá chi li, gây khó khăn cho học sinh đọc theo dõi và đọc nối tiếp.

 – Căn cứ vào số lượng học sinh dự kiến cho đọc mà chia đoạn cho phù hợp giáo viên chỉ định trước số học sinh tham gia đọc nối tiếp ở mỗi vòng đọc gọi học sinh đứng đọc những học sinh còn lại đọc thầm theo với tư thế săn sàng  nếu đến lượt để đọc nối tiếp.

– Để củng cố kĩ năng đọc trơn (đọc lưu loát) đã được rèn ở các lớp dưới, giáo viên nên hướng dẫn học sinh đọc nối tiếp qua 3 bước:

+ Bước 1: Cho học sinh đọc nối tiếp: Bước này giáo viên nghe để phát hiện những hạn chế về cách phát âm, ngắt nghỉ, ngữ điệu câu, từ đó có biện pháp hướng dẫn đối với từng cá nhân.

+ Bước 2: Cho học sinh đọc nối tiếp: Bước này giáo viên nắm bắt được tốc độ, giọng đọc của các em tham gia đọc để có nhận xét cho các em tiến bộ hơn.

+ Bước 3: Cho học sinh đọc cá nhân toàn bài hoặc đoạn: Bước này để so sánh giữa cách đọc của các em học sinh trong lớp, nắm bắt về khả năng đọc, tốc độ đọc.

   – Để lấy giọng đọc làm chuẩn giáo viên nên đọc mẫu toàn bài và lấy một học sinh đọc tốt nhất trong lớp để đọc mẫu.

   – Luyện đọc từng đoạn nối tiếp tạo điều kiện cho nhiều học sinh được thực hành đọc. Qua việc đọc mà học sinh được giáo viên chỉ dẫn, uốn nắn hay động viên, khích lệ để đạt được kĩ năng đọc, chuẩn bị cho luyện đọc diễn cảm.

– Luyện đọc nhanh:

   Đọc nhanh còn gọi là đọc lưu loát, trôi chảy có tốc độ, đọc không ê a, ngắc ngứ.

  Trong luyện đọc nhanh để học sinh đọc tốt giáo viên cần đọc mẫu một câu hay đoạn để cho học sinh cảm thụ về giọng đọc, cách lấy hơi, lên giọng, hạ giọng, ngắt nghỉ hơi,…chú ý chính về tốc độ đọc và âm lượng, tình cảm trong việc đọc bài văn. Đọc đúng tốc độ, âm lượng vừa đủ, thái độ vẫn thể hiện được tình cảm trong lời đọc thì mới gọi là đọc diễn cảm, tránh đọc luyến thoắng, đọc vẹt đánh mất nhịp điệu, không thể hiện tình cảm.

    Biện pháp luyện đọc nhanh:

   Để có giọng đọc nhanh giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh làm chủ được tốc độ đọc bằng cách đọc mẫu trước để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị để đọc nhanh có thể là câu, đoạn, bài. Giáo viên điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách giữ nhịp đọc, lấy hơi đọc. Để các em đọc tốt giáo viên nên cho các em đọc nối tiếp nhanh, đọc nhóm theo cặp để điều chỉnh tốc độ.  Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách chọn sẵn một đoạn có số tiếng cho trước và dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút, định tốc độ như thế nào còn phụ thuộc vào độ khó của bài đọc.

– Luyện đọc diễn cảm (đọc hay)

  Đọc diễn cảm đó là việc đọc thể hiện ở kĩ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng giọng, cường độ giọng,…để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc, đồng thời biểu hiện được sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm. Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở trình độ cao và chỉ thực hiện được trên cơ sở đọc đúng và đọc lưu loát.

+ Đối với loại hình văn bản nghệ thuật: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm thông qua việc dẫn dắt, gợi mở giúp học sinh hiểu biết thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc phù hợp với sự việc, hình ảnh cảm xúc, tính cách nhân vật trong bài…(Bước đầu biết làm chủ được giọng đọc về ngữ điệu, về tốc độ, trường độ và âm sắc, diễn tả đúng nội dung). Tuy nhiên, học sinh đọc diễn cảm như thế nào còn phụ thuộc vào sự cảm nhận riêng của từng em, giáo viên không nên áp đặt học sinh một cách theo khuôn mẫu.

+ Đối với loại hình văn bản phi nghệ thuật: Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định ngữ điệu đọc sao cho phù hợp với mục đích thông báo (làm rõ những thông tin cơ bản, giúp người nghe tiếp nhận được những vấn đề quan trọng hay nổi bật trong văn bản) khắc phục những cách đọc thiên về hình thức “diễn cảm” của học sinh.

– Các hình thức luyện đọc.

 Để hướng dẫn học sinh luyện đọc thành tiếng, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hoạt động theo các hình thức sau:

+ Đọc cá nhân (đọc riêng lẻ hoặc nối tiếp từng đoạn, đọc trước lớp hoặc đọc theo cặp, theo nhóm).

+ Đọc đồng thanh (theo nhóm hoặc tổ, lớp) khi cần: Ví dụ: Đọc đồng thanh để khắc sâu ấn tượng về nhịp điệu của đoạn văn, bài thơ; giúp học sinh dễ dàng ghi nhớ đoạn bài cần học thuộc lòng, thay đổi hoạt động, tạo không khí hào hứng cho lớp học.

+ Đọc theo cặp, hai học sinh ngồi cùng bàn một em đọc em kia nghe rồi nhận xét cho bạn và ngược lại đổi vai cho nhau.

+ Đọc theo phân vai (nhiều học sinh hợp tác đọc theo lời nhân vật mình đóng vai, tham gia các trò chơi luyện đọc).

b.2. Khai thác giọng đọc của học sinh thông qua việc tìm hiểu nội dung bài:

Để học sinh có cảm hứng đọc hay thích thú trong việc đọc thì người đọc phải hiểu được từ ngữ, cụm từ, nội dung chính của bài văn hay bài thơ. Học sinh đọc hiểu bài đọc trước hết phải hiểu được nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài tức là toàn bộ những gì được đọc. Giáo viên cần nắm rõ hiểu biết của học sinh để sẵn sàng giải đáp cho học sinh những từ khó hiểu trong bài. Từ việc hiểu nghĩa các từ, bài văn khiến cho học sinh đọc diễn cảm tốt hơn.

– Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài nhằm trao đổi kĩ năng đọc – hiểu, góp phần năng cao năng lực cảm thụ văn học và tạo cơ sở cho luyện đọc diễn cảm.

 Nắm được nội dung chính của bài sẽ giúp các em xác định giọng đọc chung của đoạn, của bài. Ví dụ: Bài đọc với giọng nhẹ nhàng, tha thiết, vui tươi, mạnh mẽ, giọng kể chuyện, giọng trìu mến,…

– Giáo viên nêu câu hỏi để định hướng cho học sinh đọc thầm (đoạn, bài) và trả lời đúng nội dung. Có thể kết hợp cho học sinh đọc thành tiếng, những học sinh khác đọc thầm thảo luận vấn đề do giáo viên đưa ra. Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc thầm đoạn 1 trong bài để trả lời câu hỏi 1 chẳng hạn.

– Tuỳ theo trình độ học sinh trong lớp, giáo viên có thể đưa ra nguyên văn câu hỏi, trong sách giáo khoa chia tách câu hỏi thành các ý nhỏ để học sinh dễ thực hiện hoặc bổ sung câu hỏi phụ có tác dụng dẫn dắt học sinh trả lời câu hỏi.

– Bằng nhiều hình thức khác nhau (làm việc cá nhân hoặc theo cặp, theo nhóm…). Giáo viên tạo điện kiện cho học sinh luyện tập một cách tích cực. Trong quá trình tìm hiểu bài, giáo viên cần rèn luyện cho học sinh cách trả lời câu hỏi, trao đổi ý kiến.

 Muốn đọc diễn cảm một văn bản, phải lựa chọn được giọng điệu, ngữ điệu phù hợp với tình huống miêu tả, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm của nhân vật hay tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội dung miêu tả trong văn bản. Sau khi tìm hiểu bài và nắm được nội dung, ý nghĩa bài đọc. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc thật tốt một đoạn nhằm “thăm dò” khả năng thể hiện sự cảm nhận nội dung bằng giọng đọc của học sinh. Qua kết quả đọc của học sinh, giáo viên dẫn dắt, gợi ý để học sinh phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế và tự tìm ra cách đọc hợp lý. Ví dụ: Đoạn vừa rồi đọc với giọng điệu như thế nào? Để nêu đặc điểm của nhân vật, em cần chú ý nhấn giọng ở những từ ngữ nào? Hoặc: Qua nội dung bài, em hãy xác định giọng đọc chung của toàn bài ?

Học sinh thảo luận và trả lời – Sau đó giáo viên rút ra kết luận chung.

b.3. Giáo viên đọc mẫu diễn cảm.

 Đọc mẫu diễn cảm là sử dụng ngữ điệu để phô diễn cảm xúc của bài đọc. Phải hoà nhập tâm hồn với nội dung bài đọc, với văn cảnh thì mới có cảm xúc, mới tìm thấy ngữ điệu phù hợp.

 Đọc mẫu đòi hỏi giáo viên phải đọc đúng, rõ ràng, ngữ điệu đọc phù hợp. Đó là việc thể hiện giọng đọc, ngắt giọng biểu cảm, thể hiện tốc độ, cường độ, cao độ để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc, đồng thời thể hiện sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm.

-Giáo viên đọc mẫu nhằm minh hoạ, gợi ý hoặc “tạo tình huống” cho học sinh nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc. Thí dụ: Nghe và phát hiện cách đọc của cô; ngừng nghỉ, ngắt nhịp ở chỗ nào, nhấn giọng hay cao giọng, kéo dài giọng ở từ ngữ nào?…Mỗi cá nhân có cảm thụ riêng, từ đó có cách đọc diễn cảm bộc lộ sự sáng tạo của mình.

  Muốn học sinh đọc hay, đọc đúng, đọc diễn cảm thì trước hết người giáo viên phải đọc tốt để thâm nhập, lây truyền tới học sinh nhằm gây hứng thú cho học sinh trong tiết học. Để đọc tốt thì người giáo viên luôn coi trọng việc đọc mẫu để từ đó thường xuyên rèn luyện giọng đọc của mình, có ý thức tự điều chỉnh mình đọc đúng hơn và phải có lòng ham muốn đọc hay.

b.4. Luyện tập thực hành đọc diễn cảm văn bản.

  – Đọc diễn cảm học sinh phải làm chủ được chỗ ngắt giọng, kĩ thuật ngắt giọng biểu cảm, làm chủ được tốc độ đọc (độ nhanh, chậm, chỗ dãn nhịp đọc), làm chủ được cường độ giọng (đọc to hay nhỏ, nhấn giọng hay không) và làm chủ ngữ điệu (độ cao của giọng đọc, lên giọng hay hạ giọng). Giáo viên cần chú ý việc ngắt giọng biểu cảm đối lập với ngắt giọng lôgic. Ngắt giọng lôgic là chỗ dừng để tách các nhóm từ trong câu. Ngắt giọng lôgic hoàn toàn phụ thuộc vào ý nghĩa và quan hệ giữa các từ. Ví dụ, do quan hệ chủ-vị của tiếng “cờ” và “đỏ” mà được ngắt như sau: “Cờ bay /đỏ những mái nhà” mà không ngắt “Cờ/ bay đỏ những mái nhà” vì ngắt như cách sau là do đã hiểu giữa “cờ” và “bay” có quan hệ chủ -vị. Các dấu câu cũng biểu hiện của ngắt giọng lôgic.

  Ngắt giọng biểu cảm là phương tiện tác động đến người nghe. Ngắt giọng lôgic thiên về trí tuệ thì ngắt giọng biểu cảm thiên về cảm xúc, có tác dụng truyền cảm, góp phần tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao, đó là sự ngắt giọng có ý đồ nghệ thuật. Ví dụ, câu thơ “Mắt nhắm rồi lại mở ra ngay” nếu tạo một chỗ ngưng (ngắt giọng) sau “Mắt nhắm rồi” thì sẽ có hiệu quả nghệ thuật cao hơn so với ngắt giọng bình thường vì ngắt giọng như vây sẽ tăng âm lượng của câu thơ cho bốn tiếng cuối “lại mở ra ngay” sẽ gây tập chung, chú ý  và thôi thúc phải trả lời tại sao nếu nhắm mắt thì lập tức hãy mở ra ngay lo lắng cho con cái.

  Tốc độ đọc sẽ ảnh hưởng lớn đến sự diễn cảm, đặc biệt là chỗ có thay đổi tốc độ gây sự chú ý, có giá trị biểu cảm tốt. Ví dụ khi dọc bài thơ “Mẹ” nếu câu cuối “Mẹ là ngọn gió của con suốt đời” đọc chậm lại, nhịp dãn ra thì câu thơ có nhiều âm lượng nhất trong bài này sẽ đọng lại trong lòng người đọc hơn với tốc độ bình thường như câu khác.

   Ngữ điệu: đó là sự lên cao giọng hay hạ giọng cho phù hợp với văn cảnh. Ví dụ, “Bà ơi! Thương mấy là thương”.

   Người dạy cần tạo điều kiện cho từng học sinh được thực hành luyện đọc diễn cảm (theo cặp, theo nhóm, cá nhân) để rút kinh nghiệm.

Luyện đọc diễn cảm các câu tiêu biểu trong bài: Cách luyện đọc này tạo điệu kiện cho tất cả học sinh đều được đọc. Theo các bước sau:

+ Giáo viên đưa ra câu cần luyện đọc đã ghi ở bảng phụ.

+ Học sinh tìm hiểu nghĩa của câu văn đó.

+ Học sinh xác định giọng đọc của câu văn.

+ Giáo viên đọc mẫu hoặc học sinh đọc mẫu. Học sinh thảo luận, nhận xét về giọng đọc của cô, của bạn mà mình yêu thích.

+ Học sinh luyện đọc theo nhóm, tổ, cá nhân.

– Luyện đọc diễn cảm đoạn văn hoặc khổ thơ.

Giáo viên cho học sinh nhắc lại cách thể hiện giọng đọc, cách ngắt giọng, nhấn giọng ở những từ ngữ biểu cảm trong đoạn hoặc khổ thơ đó rồi cho học sinh luyện đọc theo trình tự các bước:

+ Giáo viên đọc mẫu – Học sinh thảo luận, nhận xét về giọng đọc.

+ Học sinh luyện đọc theo cặp.

+ Tổ chức cho học sinh thi đọc diễn cảm trước lớp để các em học tập lẫn nhau và được giáo viên động viên hay uốn nắn.

– Học sinh luyện đọc diễn cảm cả bài.

+ Giáo viên tiến hành các bước như trên.

+ Học sinh đọc cá nhân – Giáo viên nhận xét đánh giá.

® Đối với những văn bản có từ hai nhân vật trở lên, tổ chức cho học sinh thể hiện giọng đọc theo nhân vật của văn bản hoặc cho học sinh đọc phân vai. Rèn cho các em biết thay đổi giọng đọc khi nhập vai các nhân vật trong bài đọc. Cụ thể các em phải đọc phân biệt được lời của tác giả và lời của nhân vật; phân biệt được lời của nhân vật khác. Giáo viên nên hướng dẫn như sau:

-Cho học sinh đọc bài và tìm trong bài có mấy nhân vật.

-Giáo viên giúp học sinh chỉ ra từng tính cách của từng nhân vật và xác định giọng đọc phù hợp với từng nhân vật.

-Giáo viên thực hiện đọc mẫu lời các nhân vật bằng giọng đọc của mình hoặc có thể gọi học sinh có năng lực đọc tốt thể hiện.

-Học sinh luyện tập nhiều lần theo hướng dẫn của giáo viên.

b.5. Xây dựng không khí hào hứng, say mê học tập cho học sinh bằng cách tổ chức các trò chơi học tập trong giờ tập đọc.

  Để kích thích hứng thú luyện đọc của học sinh, giáo viên có thể tổ chức các trò chơi học tập cho học sinh. Thông qua các trò chơi kích thích hứng thú đọc; rèn tư duy linh hoạt; luyện tác phong nhanh nhẹn, tháo vát, tự tin; giáo dục tư tưởng, tình cảm tốt đẹp.

  Trò chơi học tập thường được tổ chức khi luyện đọc hoặc đọc diễn cảm, luyện học thuộc lòng. Tuỳ thời gian và điều kiện cho phép, giáo viên lựa chọn trò chơi học tập thích hợp để tổ chức cho học sinh tham gia. Ví dụ: Thi đọc nối tiếp từng đoạn (theo nhóm, tổ), đọc “truyền điện” thi tìm nhanh – đọc đúng; nhìn một từ đọc cả câu (hoặc nhìn một câu đọc cả đoạn), nghe đọc đoạn, đoán tên bài; thi đọc truyện theo vai, thả thơ… Dưới đây tôi xin giới thiệu một số trò chơi luyện đọc như sau:

– Trò chơi “Thả thơ”:

® Chuẩn bị: Giáo viên viết vào phiếu câu thơ đầu (hoặc giữa) ở mỗi khổ thơ, hoặc 1- 2 từ đầu của mỗi câu thơ. Ví dụ bài thơ: Sắc màu em yêu (Tập đọc tập 1 – Học thuộc lòng, lớp 5). Giáo viên làm các phiếu như sau:

          Phiếu 1: Em yêu màu đỏ…………………..đội viên

          Phiếu 2: Em yêu màu xanh…………………cao vợi

          Phiếu 3: Em yêu màu vàng…………………..rực rỡ

          Phiếu 4: Em yêu màu trắng………………….của bà

® Tiến hành: Giáo viến hướng dẫn cách chơi và nêu yêu cầu:

 + Mỗi lượt chơi gồm 2 nhóm và số người bằng số phiếu mỗi nhóm cử nhóm trưởng, 2 nhóm trưởng bốc thăm để giành quyền  “thả thơ” trước.

 + Mỗi em trong nhóm cầm 1 tờ phiếu (giữ kín). Giáo viên hô “bắt đầu” nhóm được thả thơ trước cử 1 người thả ra một tờ phiếu cho một bạn nhóm kia. Bạn nhận được phiếu phải đọc thuộc cả khổ thơ hoặc câu thơ có câu từ ghi trên phiếu. Nếu đọc đúng được tính 1 điểm.

 + Giáo viên tính số điểm của nhóm đọc thuộc thơ. Đổi nhóm chơi tương tự như trên. Giáo viên tính điểm nhóm thứ 2.

 + Kết thúc trò chơi: Giáo viên tuyên dương nhóm đọc tốt, điểm cao.

– Thi đọc tiếp sức:

 ® Chuẩn bị: 1 đồng hồ, sách giáo khoa, giáo viên dự kiến số nhóm tham gia chơi.

® Tiến hành:

            – Giáo viên yêu cầu và hướng dẫn cách chơi.

            – Giáo viên quy định các nhóm có số lượng học sinh bằng nhau.

            – Từng nhóm lên bảng đứng thành hàng ngang. Mỗi em cầm một cuốn sách giáo khoa, đã mở sẵn trong đó có bài văn sẽ thi đọc.

 – Giáo viên hô lệnh: “bắt đầu”, em số 1 (đầu hàng bên phải hoặc bên trái) đọc câu thứ nhất của bài, dứt tiếng cuối cùng câu thứ nhất, em số 2 (cạnh số 1) mới được đọc tiếp câu thứ hai…Cứ như vậy cho đến em cuối cùng của nhóm. Nếu chưa hết bài, câu tiếp theo lại đến lượt em số 1, em số 2 đọc…cho đến hết bài văn thì dừng lại.

 Giáo viên tính và ghi bảng thời gian đọc của mỗi nhóm.

 -Học sinh sẽ bị trừ điểm nếu đọc sai lẫn hay thừa thiếu tiếng trong câu hoặc đọc câu sau khi người trước chưa đọc xong, đọc vượt quá một câu theo quy định.

-Giáo viên cho từng nhóm thi đọc, tính thời gian của mỗi nhóm cho điểm nhóm “đọc tiếp sức” mỗi câu văn đọc đúng cho một điểm, không cho điểm các trường hợp vi phạm.

-Giáo viên cùng cả lớp nhận xét, chọn và tuyên dương nhóm đọc tiếp sức nhanh nhất, hay nhất.

® Lưu ý: Ở tiết tập đọc một bài thơ, giáo viên nên cho học sinh đọc hai dòng hoặc một câu thơ. Nếu là tiết tập đọc – học thuộc lòng, giáo viên cho thi

tiếp sức theo cách trên nhưng học sinh không nhìn sách giáo khoa.

– Đọc thơ truyền điện.

-Chuẩn bị: Thời điểm chơi cuối tiết tập đọc hoặc tiết học thuộc lòng. Học sinh 2 nhóm ngồi quay mặt vào nhau.

– Tiến hành:

+ Giáo viên nêu tên bài thơ sẽ đọc truyền điện, nêu cách chơi.

+ Hai nhóm bốc thăm để giành quyền đọc trước.

+ Đại diện nhóm đọc trước là (A) đọc khổ thơ đầu tiên của bài thơ rồi chỉ định thật nhanh “truyền điện” một bạn bất kì (nhóm B). Bạn được chỉ định đọc tiếp khổ thơ thứ 2 của bài. Nếu đọc thuộc được chỉ định một bạn nhóm (A) đọc tiếp khổ thơ thứ 3…cứ như vậy cho đến hết bài.

Ví dụ: Bài  “Hạt gạo làng ta” (lớp 5 tập 1)

 -HS A­1: Đọc khổ thơ 1 ; HS B­1: Đọc khổ thơ 2 ; HS A­2: Đọc khổ thơ 3 ; HS B­2: Đọc khổ thơ 4 ; HS A­3: Đọc khổ thơ 5.

 Trường hợp học sinh được “truyền điện” chưa thuộc, các bạn nhóm đối diện sẽ hô từ 1 đến 5, nếu không đọc được phải đứng yên tại chỗ bị “điện giật” lúc đó HS A­1 chỉ tiếp HS B

 Nhóm nào có nhiều người phải đứng bị “điện giật” là nhóm thua cuộc. Như vậy, ta thấy tổ chức trò chơi học tập luôn luôn làm cho học sinh hào hứng, say mê tích cực trong học tập, làm cho học sinh ham mê học hơn.

 

III.1. Kết luận:

 Trong thế kỉ XXI này – thời đại của tri thức và trí tuệ, của khoa học công nghệ và thông tin. Biết đọc càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thông tin, để đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Dạy đọc và đọc diễn cảm cho học sinh tiểu học là một vấn đề hết sức cần thiết nó có ý nghĩa rất lớn để kích thích sáng tạo của học sinh, mở rộng vốn hiểu biết, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho học sinh. Qua các bài tập đọc, học sinh còn được cung cấp vốn từ ngữ, năng lực diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm văn học. Từ đó nâng cao trình độ văn hoá nói chung và trình độ Tiếng Việt nói riêng; góp phần vào việc gìn giữ sự trong sáng của Tiếng Việt trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế.

 Do vậy để nâng cao hiệu quả dạy đọc và đọc  diễn cảm cho học sinh lớp 4- 5. Đòi hỏi mỗi giáo viên chúng ta phải nỗ lực hết mình, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, đầu tư suy nghĩ sáng tạo làm cho các em say mê, hứng thú hoạt động học tập hơn…Tôi đã nghiên cứu, tìm tòi và đưa ra các biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy đọc diễn cảm cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 4- 5 trường tiểu học Kim Đồng nói riêng:

 -Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng một cách linh hoạt, khéo léo.

-Biện pháp 2: Khai thác giọng đọc của học sinh thông qua việc tìm hiểu nội dung bài đọc.

-Biện pháp 3: Giáo viên đọc mẫu diễn cảm.

-Biện pháp 4: Luyện tập thực hành đọc diễn cảm văn bản.

-Biện pháp 5: Xây dựng không khí hào hứng, say mê học tập cho học sinh bằng cách tổ chức trò chơi học tập trong giờ tập đọc.(như đã trình bày ở trên)

Các biện pháp trên đã thực tế thực nghiệm ở lớp 4c1, 5C2 trường tiểu học Kim Đồng  đã thu được kết quả rất tốt. Vì vậy có thể mở rộng hơn. Do thời gian và trình độ có hạn nên đề tài của tôi mới chỉ dừng lại ở phạm vi nhỏ, sự thực nghiệm còn chưa nhiều. Song tôi tin chắc rằng với những biện pháp này, bằng sự sáng tạo của mình các giáo viên sẽ vận dụng có hiệu quả trong quá trình dạy học đọc và đọc diễn cảm ở lớp 4-5 và các lớp khác trong bậc học Tiểu học. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến hay bổ ích của các bạn đồng nghiệp, các cấp quản lý cho sáng kiến này có đủ cơ sở về thực tiễn và lý luận để đưa vào áp dụng thực dạy tốt nhất, hiệu quả nhất

Bấm vào đây để tải về

 

 

 

Copyright 2019 © Kinh nghiệm dạy học | Thiết kế bởi Web Bách Thắng