Một số biện pháp tăng cường hứng thú học tập môn Tự nhiên – Xã hội của học sinh lớp 2

Một số biện pháp tăng cường hứng thú học tập môn Tự nhiên – Xã hội của học sinh lớp 2

  1. Lý do chọn đề tài

Hứng thú là một trong những vấn đề phức tạp của tâm lý học. Trong học tập cũng như làm việc muốn có hiệu quả thì trước tiên phải có sự hứng thú và say mê. Hứng thú có vai trò to lớn trong đời sống và hoạt động của con người bởi khi có sự hứng thú sẽ tạo cho cá nhân một trạng thái dễ chịu, làm tăng hiệu quả của quá trình nhận thức, làm nảy sinh khát vọng hành động, hành động có sáng tạo và cũng từ đó làm tăng sức làm việc của cá nhân.

Tạo hứng thú học tập cho học sinh là một trong những điều cốt yếu trong quá trình dạy học, đặc biệt là ở lứa tuổi tiểu học. Bởi đây là bậc học đầu tiên các em được làm quen với một môi trường học tập hoàn toàn mới, một cách tiếp cận với tri thức mới, bậc học này chính là nền tảng cho những bậc học tiếp theo.

Khi có hứng thú, hoạt động học tập của học sinh sẽ trở nên dễ dàng hơn. Hứng thú sẽ làm cho những tiết học không còn gây áp lực, căng thẳng với các em mà ngược lại các em còn cảm thấy hào hứng, mong chờ để được khám phá những kiến thức mới, những điều lí thú và bổ ích mới… Thông qua đó, học sinh sẽ tích cực, tự giác hơn trong quá trình học tập, chủ động thực hiện và thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Hứng thú học tập là một trong những nhân tố cơ bản phát huy được tính sáng tạo trong hoạt động học tập của học sinh và nâng cao ý thức của người học. Từ đó, giúp các em nắm được tri thức một cách nhanh nhất, sâu sắc nhất… không những thế các em còn biết cách áp dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống một cách sáng tạo, khoa học.

Hứng thú học tập là một điều vô cùng quan trọng và cần thiết đối với học sinh nói chung và học sinh tiểu học nói riêng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng, hiện nay hứng thú học tập nhiều môn học ở bậc tiểu học chưa thực sự được xem trọng. Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập của học sinh cũng như quá trình phát triển toàn diện của trẻ.

Tự nhiên – Xã hội là một trong những môn học đóng vai trò quan trọng trong chương trình tiểu học. Thông qua môn học sẽ giúp cho học sinh có những hiểu biết cơ bản ban đầu thiết thực về tự nhiên, xã hội, các mối quan hệ của con người xảy ra xung quanh các em; Hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng như quan sát, phân tích, so sánh, đối chiếu, đánh giá, tổng hợp… tích hợp cho học sinh những kĩ năng cần thiết của cuộc sống. Ngoài ra, môn Tự nhiên – Xã hội còn hình thành và phát triển ở học sinh lòng yêu thiên nhiên, đất nước, yêu cái đẹp và biết bảo vệ chúng; Hình thành cho học sinh lòng ham hiểu biết khoa học, thích tìm tòi, khám phá và sáng tạo. Học tốt môn Tự nhiên – Xã hội góp phần giúp các em học tốt các môn học khác. Bên cạnh các môn học khác như: Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên – Xã hội trang bị cho các em những kiến thức cơ bản của bậc học góp phần bồi dưỡng nhân cách toàn diện cho trẻ.

Tuy nhiên, hiện nay ở các trường tiểu học nói chung, học sinh chưa thực sự tìm được hứng thú khi học môn Tự nhiên – Xã hội. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do sự tác động của rất nhiều các yếu tố từ phía nhà trường, giáo viên, phụ huynh học sinh và bản thân các em, chưa thực sự hiểu được tầm quan trọng và sự cần thiết của môn học trong chương trình tiểu học nên trong quá trình dạy và học, môn Tự nhiên – Xã hội bị coi như một môn phụ và chưa nhận được sự quan tâm đúng mức. Phụ huynh không quan tâm; Giáo viên lơ là, dạy “chay”, chưa thực sự đầu tư cho một tiết học Tự nhiên – Xã hội, việc dạy và học môn này chỉ mang tính chất hình thức… Từ đó, làm cho các tiết học Tự nhiên – Xã hội trở nên nhàm chán đối với học sinh, học sinh cảm thấy mệt mỏi, thờ ơ, không mấy hứng thú với kiến thức của môn học dẫn đến việc các em nắm kiến thức một cách thụ động và không biết cách áp dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn một cách khoa học, hợp lí… những điều này đã làm cho quá trình dạy và học môn Tự nhiên – Xã hội chưa thực sự đạt được hiệu quả như mong muốn.

Chính những lí do trên, tôi chọn vấn đề: “Một số biện pháp tăng cường hứng thú học tập môn Tự nhiên Xã hội của học sinh lớp2 ” làm đề tài nghiên cứu của mình.

b, Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp

Hứng thú học tập đảm bảo cho học sinh nắm nhanh và vững chắc tri thức. Học tập với tư cách là hoạt động nhận thức tích cực, tự lực và sáng tạo, đó là một quá trình căng thẳng đòi hỏi phải nỗ lực thường xuyên. Hứng thú là một sự thúc đẩy bên trong làm giảm sự căng thẳng, sự mệt nhọc và dường như nó mở ra con đường dẫn đến sự hiểu biết, nó làm cho việc nắm tri thức thoải mái và dễ dàng hơn, thuận lợi và có hiệu quả hơn.

Học tập mà dựa trên sự hứng thú thì học sinh không chỉ nắm vững được nội dung, nội dung được mở rộng và sâu sắc hơn mà còn tạo nên thái độ của cá nhân đối với học tập như là một hoạt động dễ chịu, vui sướng.

Dựa vào lý luận về con đường hình thành, phát triển hứng thú các và các biểu hiện của hứng thú học tập môn Tự nhiên – Xã hội cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú học môn Tự nhiên – Xã hội của học sinh lớp 2, có thể xác định một số biện pháp tác động cần thiết để nâng cao hứng thú học tập môn Tự nhiên – Xã hội ở các em như sau:

Thứ nhất: Là giúp học sinh nhận thức rõ ý nghĩa của môn học, hình thành động cơ học tập đúng đắn ngay từ ban đầu

Học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng sẽ hứng thú học tập môn Tự nhiên – Xã hội khi các em thấy việc học môn Tự nhiên – Xã hội thực sự có ý nghĩa với cuộc sống của bản thân. Như vậy, giúp học sinh nhận thức lợi ích hay tầm quan trọng của môn Tự nhiên – Xã hội chính là việc làm có thể kích thích hứng thú, tạo động cơ học tập cho các em, có thể tiến hành công việc đó bằng cách sau:

 Trình bày lợi ích của nội dung học tập một cách rõ ràng hoặc trình bày lợi ích của nội dung học tập thông qua nhiều tình huống sư phạm.

Ngay từ ban đầu giáo viên cần giáo dục cho các em thấy được lợi ích của môn học, tầm quan trọng, ý nghĩa của môn học để các em hình thành động cơ học tập đúng đắn. Để học sinh thấy được tầm quan trọng đó thì đầu tiên trong mỗi tiết dạy của giáo viên đòi hỏi phải có sự chuẩn bị chu đáo, có đầu tư để các em thấy được môn Tự nhiên – Xã hội không phải là môn học phụ, chỉ học lướt qua hay học để biết. Trong quá trình dạy học, giáo viên sẽ đưa ra nhiều vấn đề khác nhau liên quan tới nội dung môn học, những nội dung ấy gần gũi, thiết thực với các em giúp các em nhận thức được lợi ích của môn học. Từ đó, hình thành sự yêu thích môn học và hứng thú tìm tòi, khám phá, có động cơ học tập ngay từ đầu, không còn có thái độ, chểnh mảng, lơ là.

Thứ hai: Là giáo viên phải biết đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học như: Dạy học cá nhân, dạy học theo nhóm, dạy học trong lớp, dạy học ngoài trời…

Có nhiều hình thức tổ chức dạy học khác nhau. Có thể tóm tắt các hình thức dạy học trong môn Tự nhiên – Xã hội theo sơ đồ sau:

                                                                                                          

Sự đa dạng của các phương pháp dạy học đòi hỏi phải có sự kết hợp với các hình thức dạy học khác nhau. Các hình thức dạy học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mỗi hình thức tổ chức dạy học dạy học có tác dụng tích cực phát triển học sinh ở một khía cạnh nào đó. Việc kết hợp nhiều hình thức dạy học với nhau cho phép phát huy được thế mạnh của các hình thức tổ chức dạy học.

Vì vậy, giáo viên cần phải linh hoạt trong việc xác định mục tiêu, nội dung kiến thức chính cần cung cấp cho học sinh trong mỗi bài học để từ đó lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp. Không nên quá phụ thuộc hay chú trọng vào một hình thức tổ chức dạy học nào bởi mỗi hình thức tổ chức dạy học đều có những ưu điểm và mặt hạn chế riêng. Sự kết hợp hài hòa, linh hoạt, hợp lý các hình thức tổ chức dạy học sẽ giúp học sinh hứng thú, tích cực, chủ động hơn trong quá trình học tập; Thúc đẩy người học suy nghĩ, làm việc, thảo luận nhiều hơn. Từ đó, góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu giáo dục lấy người học làm trung tâm.  

Thứ ba: Là có sự kết hợp hài hòa, linh hoạt các phương pháp dạy học trong một tiết dạy

Có rất nhiều phương pháp dạy học khác nhau như: Phương pháp quan sát; Phương pháp đóng vai; Phương pháp hỏi đáp; Phương pháp thí nghiệm; Phương pháp kể chuyện; Phương pháp trò chơi; Phương pháp thảo luận nhóm; Phương pháp sử dụng phiếu điều tra; Phương pháp phân vai… mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng.

Mỗi phương pháp dạy học đều có tác dụng tích cực đối với một số mặt học tập của học sinh, giúp cho học sinh nắm vững kiến thức và phát triển một số kỹ năng, thái độ (Nhờ quan sát học sinh có được những tư liệu phong phú, tỉ mỉ, hình thành những biểu tượng, khái niệm cụ thể về thế giới khách quan; Đàm thoại giúp học sinh mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp, trình bày vấn đề; Với phương pháp làm thí nghiệm học sinh được trực tiếp chứng minh thí nghiệm nên tạo niềm tin vào khoa học, kích thích niềm say mê khoa học, giúp học sinh hiểu bài nhanh và nhớ bài lâu hơn; Qua các lời thoại, vai diễn, cử chỉ sáng tạo học sinh có điều kiện bộc lộ những khả năng tự nhận thức, đồng thời thể hiện rõ những tính cách cá tính của mình…). Vận dụng tốt sẽ lấy ưu điểm của phương pháp dạy học này khắc phục hạn chế của phương pháp dạy học kia. Chính vì vậy, không có phương pháp dạy học nào là chìa khóa vạn năng, là tối ưu cho mọi trường hợp. Do đó, việc nghiên cứu kỹ nội dung bài giảng, đặc điểm riêng của từng bài học và đối tượng người học để có sự kết hợp hài hòa, đa dạng, linh hoạt các phương pháp dạy học khác nhau trong một tiết học là một yêu cầu có tính bắt buộc đối với việc nâng cao hứng thú học tập môn Tự nhiên – Xã hội của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục toàn diện.

Dù sử dụng phương pháp dạy học nào thì dạy học có hiệu quả nhất là dạy học đề cao hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh và phải phù hợp với hình thức dạy học đã chọn để đảm bảo tính thống nhất, khoa học. Ở Ấn Độ, nói về dạy học có một sự tổng hợp ngắn gọn:

Tôi nghe – Tôi quên; Tôi nhìn – Tôi nhớ; Tôi làm – Tôi hiểu.

Vậy “Phương pháp dạy học phổ thông, phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; Phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; Bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; Rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; Tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” ( Điều 28. Luật Giáo dục 2005).

Thứ tư: Là để đảm bảo tính hấp dẫn trong học tập, đặc biệt chú ý tới các bài tập, hoạt động có tính chất trò chơi

Đối với học sinh lớp 2, ở lứa tuổi này các em còn mang đậm tính hồn nhiên, sự chú ý chưa cao. Bên cạnh hoạt động học là chủ đạo thì nhu cầu chơi, giao tiếp với bạn bè vẫn tồn tại, cần được thoả mãn. Nếu người giáo viên biết phối hợp nhịp nhàng giữa nhiệm vụ của hoạt động học với sự thoả mãn nhu cầu chơi, giao tiếp của các em “học mà chơi, chơi mà học” thì các em sẽ hăng hái say mê học tập và tất yếu kết quả của việc dạy học cũng đạt được cao hơn.

Trong dạy học môn Tự nhiên – Xã hội, giáo viên chú ý sử dung kết hợp nhiều bài tập, hoạt động có tính chất trò chơi chính là đưa học sinh đến với các hoạt động vui chơi giải trí nhưng có nội dung gắn liền với bài học. Những bài tập, hoạt động có tính chất trò chơi trong học tập có tác dụng giúp học sinh thay đổi động hình, chống mệt mỏi, tăng cường khả năng thực hành kiến thức của bài học và phát huy hứng thú, tạo thói quen độc lập, chủ động và sự sáng tạo của học sinh.

Việc sử dụng các bài tập, hoạt động có tính chất trò chơi vào dạy học môn Tự nhiên – Xã hội chính là việc giáo viên khơi dậy hứng thú, niềm say mê học tập tạo không khí sôi nổi cho một giờ học. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải xác định rõ yêu cầu bài dạy cần đạt. Trên cơ sở đó xác định cần đưa bài tập, hoạt động có tính chất trò chơi vào lúc nào? Chính vì vậy, trong một giờ học Tự nhiên – Xã hội có sử dụng các bài tập, hoạt động có tính chất trò chơi, để phát huy được hiệu quả, khơi dậy được sự hứng thú học tập của học sinh, giáo viên cần lưu ý một số điểm sau:

– Khơi dậy lòng say mê thích học hỏi của học sinh, làm cho học sinh cảm thấy thực sự yêu thích môn học không nên gò ép các em theo một khuôn thước nhất định. Biết trân trọng sự sáng tạo của học sinh.

– Các bài tập, hoạt động có tính chất trò chơi phải góp phần thực hiện mục tiêu bài dạy. Phải được chuẩn bị kĩ phù hợp với đối tượng học sinh cả về thẩm mĩ và nội dung và hoạt động.

– Không nên tổ chức kéo dài trò chơi sẽ ảnh hưởng tới mạch kiến thức. Cần biết tổ chức cho khéo trò chơi học tập cần mang đúng nghĩa học mà chơi, chơi mà học, tránh sự thái quá.

– Trò chơi chỉ áp dụng với mỗi bài 1 lần. Nếu là các hoạt động, bài tập, trò chơi khám phá nội dung kiến thức bài học thì cần thu hút đông đảo học sinh tham gia, tránh hiện tượng chỉ có một nhóm học sinh tham gia.

Thứ năm: Là tăng cường tính vấn đề trong dạy học, tăng tính chủ động nhận thức của học sinh

Tăng cường tính vấn đề trong dạy học, tăng tính chủ động nhận thức của học sinh là nội dung được thể hiện rõ nét trong phương pháp dạy học theo hướng phát hiện và giải quyết vấn đề.

Trong dạy học các môn học nói chung và dạy học môn Tự nhiên – Xã hội nói riêng, để học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm bắt được phương pháp đi tới tri thức đó, lại vừa phát triển tư duy tích cực, sáng tạo và có khả năng vận dụng tri thức vào giải quyết tình huống mới, thì đòi hỏi giáo viên phải đưa ra những bài tập, những tình huống có vấn đề. Đặt học sinh vào những tình huống có vấn đề để các em tự suy nghĩ tìm cách giải quyết từ đó tìm ra nội dung kiến thức theo yêu cầu của bài học.

Như vậy, với việc tăng cường tính vấn đề trong dạy học, học sinh thực sự được chủ động trong nhận thức của mình, các em cảm thấy hứng thú hơn trong quá trình học tập bởi dưới sự hướng dẫn của người thầy, bằng sự cố gắng, làm việc nghiêm túc, suy nghĩ tìm tòi chính các em là người tìm ra kiến thức của bài học. Đối với học sinh tiểu học, điều này có ý nghĩa rất lớn với các em, nó như là một nguồn động lực để các em thể hiện khả năng của mình, tin tưởng vào bản thân mình để cố gắng và phấn đấu nhiều hơn nữa trong học tập.

Thứ sáu: Là tạo điều kiện để học sinh củng cố lòng tin vào sức mình, kịp thời biểu dương khi học sinh trả lời đúng hoặc thể hiện sự cố gắng

Theo các nhà tâm lý học, chính quá trình tích cực, tự giác hành động và hứng thú học tập của học sinh là điều kiện, là động lực quan trọng, trực tiếp quyết định đến chất lượng học tập.

Ngoài động cơ nhận thức (động cơ bên trong), đối với học sinh tiểu học còn có một số động cơ khác thúc đẩy quá trình học tập của trẻ như: Các em học giỏi được thầy cô khen, cha mẹ vui lòng, bạn bè yêu mến và thán phục… Chính vì thế, chúng ta phải quan tâm đến việc đánh giá, nhấn mạnh đến ưu điểm, đến tiến bộ, đến cố gắng của học sinh bởi đây sẽ là nguồn động viên các em luôn cố gắng trong học tập. Trong quá trình nhận xét – đánh giá học sinh giáo viên cần lưu ý:

Đầu tiên, việc nhận xét – đánh giá của giáo viên trên lớp trước hết phải đảm bảo sự công bằng. Những học sinh có tiến bộ, đạt thành tích nhất định cần được khen, những học sinh chưa thực sự hoàn thành được công việc học tập cần phải nhắc nhở, động viên. Đánh giá công bằng tạo ra sự thi đua, cạnh tranh tích cực giữa các học sinh trong thi đua học tập, tạo động cơ bên trong của quá trình học tập.

Thứ hai, việc nhận xét – đánh giá phải nhấn mạnh về sự tiến bộ của học sinh, có nghĩa là giúp học sinh nhận thức rõ về giá trị bản thân (tốt hay xấu, tích cực hay không tích cực) hoàn toàn phụ thuộc vào việc cư xử của giáo viên và dư luận tập thể lớp. Do đó, giáo viên phải hết sức thận trọng trong việc khen, chê. Giáo viên phải nhận xét – đánh giá với thái độ tích cực, khích lệ, chú trọng vào mặt thành công của học sinh, ngợi khen kịp thời những thành tích và tiến bộ của học sinh dù rất nhỏ, hạn chế sai lầm và yếu kém của học sinh.

Như vậy, khi giáo viên đảm bảo được những nội dung trên trong quá trình nhận xét – đánh giá sẽ giúp học sinh được củng cố lòng tin và nâng cao hứng thú của các em trong học tập. Từ đó, góp phần đảm bảo, nâng cao chất lượng dạy và học môn Tự nhiên – Xã hội.  

Thứ bảy: Là tăng cường sử dụng và sử dụng hợp lý phương tiện, thiết bị dạy học trong quá trình dạy học

Phương tiện, thiết bị dạy học góp phần quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học hướng vào hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học là một trong những điều kiện quyết định sự thành công của cải cách giáo dục.

Môn Tự nhiên – Xã hội là môn học có trên 90% số tiết cần sử dụng thiết bị dạy học. Thiết bị dạy học trong môn Tự nhiên – Xã hội khá đa dạng, bao gồm: Vật thật, mẫu vật, tranh ảnh, mô hình, dụng cụ thí nghiệm, sơ đồ, bản đồ, lược đồ, đồ thị, các phương tiện nghe nhìn… Trước đây người ta quan niệm thiết bị dạy học chỉ là phượng tiện minh họa cho lời giảng của giáo viên. Ngày nay người ta coi thiết bị dạy học chẳng những là phương tiện minh họa cho lời giảng của giáo viên mà còn là phương tiện giúp giáo viên tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh, là phương tiện phát triển tư duy và là một mắt xích quan trọng trong quá trình dạy học. Điều này thể hiện qua sơ đồ sau:

Phương tiện, thiết bị dạy học giúp cho học sinh dễ dàng nhận ra những đặc điểm bên ngoài của sự vật hiện tượng và thấy được cả những thuộc tính bên trong, bản chất của sự vật hiện tượng. Phương tiện, thiết bị dạy học thực sự góp phần phát triển tư duy ở học sinh.

Phương tiên thiết bị dạy học giúp nâng cao hiệu quả học tập, tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp bài học dễ tiếp thu hơn, đẩy nhanh tốc độ ghi nhớ và nhớ bền vững hơn.

Tuy nhiên, để thực sự phát huy được hiệu quả của các phương tiện, thiết bị dạy học trong quá trình dạy học giáo viên cũng cần lưu ý một số điểm sau:

– Sử dụng phương tiên, thiết bị dạy học đúng lúc, đúng thời điểm tránh làm phân tán sự chú ý của học sinh.

– Chọn vị trí đặt phương tiện dạy học thuận lợi để học sinh dễ quan sát, dễ dàng tiếp cận. Đặc biệt đối với phương tiện nghe nhìn thì phải chọn vị trí sao cho học sinh sử dụng thuận lợi nhiều giác quan trong hoạt động với phương tiện.

– Tùy theo đối tượng học sinh, việc sử dụng phương tiện dạy học diễn ra trong một thời lượng thích hợp, đảm bảo có tác dụng tích cực đối với việc học tập của học sinh. Kết luận nghiên cứu về Sinh lý học đã chỉ ra rằng: Đối với học sinh tiểu học, hoạt động mà kéo dài trên 15 phút thì khả năng làm việc của trẻ sẽ giảm rất nhanh.

– Sử dụng phương tiện, thiết bị dạy học phải đáp ứng mục đích và phù hợp với nội dung của việc dạy học.

– Sử dụng phương tiện dạy học nhưng phải luôn đề cao vai trò chủ động, tích cực của học sinh. Giáo viên luôn tạo điều kiện tối đa để học sinh tự làm việc với phương tiện dạy học qua đó tìm tòi, khám phá các tri thức cần thiết cho mình.

– Phối hợp nhiều loại phương tiện dạy học khác nhau, nhiều dạng khác nhau trong cùng một bài học, không nên quá cường điệu một loại phương tiện nào đó, hay sử dụng liên tục gây nhàm chán ở học sinh.

– Luôn tích cực tìm tòi và tự tạo các phương tiện dạy học đơn giản, rẻ tiền, dễ thực hiện, học sinh có thể làm được và khai thác tối đa các chức năng của phương tiện dạy học sẵn có.

Thứ tám: Là thu hút học sinh vào công tác ngoại khóa, học ngoại khóa một cách có hệ thống

Hoạt động ngoại khóa là hoạt động có tác động mạnh mẽ tới nhận thức, thái độ của học sinh đối với việc học môn Tự nhiên – Xã hội. Qua mỗi buổi ngoại khóa là một lần các em được trải nghiệm, được củng cố và mở rộng kiến thức của bản thân. Qua đây các em được quan sát, kiểm chứng lại kiến thức mà mình đã được học và có cái nhìn tổng quát hơn về mọi mặt. Hay nói cách khác, các tình huống, các vần đề được đưa ra trong hoạt động ngoại khóa sẽ giúp học sinh một lần nữa được tái hiện kiến thức; rèn tư duy; biết cách phân biệt đúng, sai; phải, trái; nên hay không nên… để có sự lựa chọn cách giải quyết chính xác nhất.   

Tuy nhiên, để phát huy được hiệu quả tối đa của các hoạt động ngoại khóa thì yêu cầu đặt ra đó là các hoạt động này cần phải được chuẩn bị một cách chu đáo, có kế hoạch, có hệ thống, phù hợp với lứa tuổi của học sinh lớp 2. Hoạt động ngoại khóa có thể là tổ chức cho học sinh đi tham quan, tổ chức các cuộc thi với chủ đề về thiên nhiên, con người, xã hội… Để đảm bảo hiệu quả, giáo viên cần phải có sự hướng dẫn tỉ mỉ tiến trình công việc để các em thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Trong khi tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động ngoại khóa, giáo viên cần tạo cho các em một tâm lý thoải mái, hứng thú tham gia dựa trên tinh thần tự nguyện có như thế các em mới có thể củng cố và tiếp nhận tri thức một cách hiệu quả theo hình thức “Học mà chơi, chơi mà học” là cách thức dạy học hiệu quả và chất lượng nhất.

Thứ chín: Là khuyến khích học sinh đọc thêm sách báo, xem các chương trình truyền hình có nội dung kiến thức liên quan tới môn học

Nội dung kiến thức Tự nhiên – Xã hội trong sách giáo khoa mới chỉ là những nội dung kiến thức cơ bản nhất. Như vậy, để học sinh hiểu sâu sắc hơn đối tượng về mọi mặt thì học sinh cần đầu tư thời gian tìm hiểu thêm từ nhiều nguồn khác nhau như tivi, sách báo… Những nguồn tri thức này sẽ là những tài liệu vô cùng quý giá giúp các em củng cố kiến thức đã học cũng như mở mang thêm nhiều kiên thức liên quan. Qua đây các em sẽ thấy được nhiều mặt của vấn đề: Trong sách giáo khoa chỉ là những hình ảnh minh họa thì qua truyền hình các em sẽ thấy được sự chuyển động của các sự vật, các đối tượng khác nhau, hình ảnh, sự vật phong phú, sinh động và hấp dẫn. Từ đó, các em có thể tự so sánh và rút ra kiến thức cho bản thân. Những thông tin từ truyền hình, sách báo mà các em tiếp nhận được sẽ làm cho các em cảm thấy hứng thú nhiều hơn đối với môn học, vì thông qua môn học mà các em có nền tảng kiến thức vững chắc để tìm tòi, khám phá ra nhiều điều lí thú bổ ích, có ý nghĩa cho mình và mọi người.

Như vậy, các biện pháp trên nếu được sử dụng phối hợp một cách hài hòa, hợp lý trong quá trình dạy và học sẽ có tác dụng trong việc nâng cao sự hình thành và phát triển hứng thú học môn Tự nhiên – Xã hội cho học sinh lớp 2 nói riêng và học sinh tiểu học nói chung.

III.1.Kết luận

v Qua quá trình nghiên cứu đã xác định được hứng thú học môn Tự nhiên – Xã hội của học sinh như sau:

Môn Tự nhiên – Xã hội là môn học có nhiều hình ảnh, màu sắc sinh động, hấp dẫn, có nhiều kiến thức lý thú, bổ ích và gần gũi với cuộc sống hằng ngày xung quanh các em. Tuy nhiên, mức độ hứng thú học tập đối với môn học ở học sinh lớp 2 chưa cao và chưa thực sự bền vững, cụ thể như sau:

– Các em tích cực xây dựng bài trong tiết học, tiếp thu bài nhanh nhưng lại chưa biết cách áp dụng các kiến thức đã học vào đời sống một cách thích hợp. Trong nhiều trường hợp còn lúng túng… điều đó một phần nào khẳng định các em có học nhưng chưa thực sự yêu thích và nhận thức đầy đủ về môn học.

– Thời gian ở nhà các em thường ít quan tâm tới môn Tự nhiên – Xã hội, chủ yếu dành thời gian cho môn Toán và tiếng Việt. Các em chưa thực sự hiểu được vai trò và tầm quan trọng của môn học đối với bản thân.

– Mức độ hứng thú chưa bền vững còn thể hiện ở việc nhiều học sinh trong giờ học môn Tự nhiên – Xã hội còn chưa chú ý nghe giảng, nói chuyện, làm việc riêng, lấy môn khác ra học, chưa tích cực thảo luận, làm bài theo nhóm…

– Học sinh phụ thuộc rất nhiều vào sách giáo khoa, chưa linh hoạt và tích cực trong tư duy, sáng tạo. Khi giáo viên giao nhiệm vụ, bài tập về nhà cho học sinh, các em chưa tích cực hoàn thành nhiệm vụ mà thường nhờ người thân làm hộ.

v Từ việc phân tích, đánh giá thực trạng hứng thú học tập đã góp phần xác định một số biện pháp nhằm nâng cao hứng thú học tập môn Tự nhiên – Xã hội của học sinh lớp 2 như sau::

Giáo dục, nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên, học sinh về vai trò, tầm quan trọng của môn Tự nhiên – Xã hội trong sự phát triển toàn diện, hoàn thiện của trẻ cả về kiến thức, kĩ năng, thái độ.

– Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị môn học để học sinh có môi trường học tập tốt nhất, nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học nói chung và chất lượng, hiệu quả môn Tự nhiên – Xã hội nói riêng.

– Thường xuyên tổ chức bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên. Người giáo viên luôn trau dồi kiến thức, kĩ năng làm phong phú thêm kiến thức hiện có, tìm tòi thêm nhiều phương pháp dạy học mới hiệu quả hơn.

– Trong quá trình dạy học, sử dụng phối hợp nhiều hình thức, phương pháp dạy học khác nhau một cách linh hoạt, sáng tạo tránh rập khuôn, máy móc để tăng hứng thú của học sinh trong học tập.

Người giáo viên luôn quan sát, theo dõi sự tiến bộ của học sinh để có sự động viên, khuyến khích hay điều chỉnh kịp thời; lắng nghe ý kiến của học sinh để biết kịp thời điều chỉnh phương pháp dạy học một cách phù hợp.

– Có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình, để hướng dẫn cách em cách học hiệu quả nhất, đảm bảo sự phát triển toàn diện, hoàn thiện về mặt trí tuệ và nhân cách của trẻ.

– Giáo dục cho học sinh nhận thức đúng đắn về môn Tự nhiên – Xã hội, hiểu được tầm quan trọng, sự cần thiết của môn học đối với bản thân và mọi người để từ đó hình thành thái độ học tập tích cực đối với môn học.

Bấm vào đây để tải về

 

 

 

 

 

Copyright 2019 © Kinh nghiệm dạy học | Thiết kế bởi Web Bách Thắng