Một số biện pháp giúp học sinh lớp một hòa nhập nhanh.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Buổi học đầu tiên ở Mẫu giáo là một bước ngoặc lớn trong đời của trẻ nó thay đổi hoàn tâm sinh lý các em. Nhưng ở đây các em đến lớp trong tâm trạng hoàn toàn lệ thuộc vào giáo viên, các em chưa có sự chủ định để xây dựng ra các mối quan hệ xung quanh. Mỗi hoạt động của các em đều phải do giáo viên hướng dẫn, các em chỉ được chơi, học trong một khuôn viên hẹp dưới sự giám sát của giáo viên.
Nhưng bước sang lớp một là một môi trường hoàn toán khác với mẫu giáo. Một nơi học tập rộng hơn, nhiều người xa lạ hơn. Chính điều đó đã làm các em choáng ngợp và sợ hãi. Lúc này yêu tố hoạt động độc lập bắt đầu làm việc với cường độ cao nhất. Nêu em nào có tố chất mạnh mẽ se nhanh chóng hòa nhập còn những em có tâm lý yêu hơn sẽ khóc, sẽ không chịu đi học hoặc rụt rè ngồi một chỗ và không tham gia hoạt động với tập thể.
Và đó cũng là nỗi vất vả nhất của người giáo viên dạy học sinh lớp một. Bắt đầu từ khi nhận lớp đến ít nhất cũng phải hết học kì I, các em mới ổn định trạng thái tâm lý để hòa nhập với lớp và tham gia học tập cũng như rèn luyện một cách tự giác và thi đua. Nhưng khi các em biết hòa nhập với tập thể thì lại là lúc các em hỏi mọi lúc mọi nơi và hỏi bất cứ điều gì muốn hỏi. Tính cạnh tranh thi đua bắt đầu thì cũng là lúc sự đó kị với bạn trong lớp xuất hiện trong mỗi suy nghĩ các em, chỉ cần ban trong lớp làm điều gì k ưng ý là các em lại thưa cô mà không cần biết đúng hay sai. Đó là khó khăn lớn nhất của người giáo viên dạy lớp 1, nếu tính kiên trì không cao, kĩ năng sư phạm chưa thật bền vững thì chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong dạy lớp 1.
Với nhiều năm được nhà trường phân công dạy lớp 1 nên tôi cũng đã “Thấm nhuần” nỗi vất vả này. Tôi luôn suy nghĩ, trăn trở làm sao để vừa giúp các em hòa nhập nhanh môi trường học tập, đồng đều với tất cả các đối tượng học sinh. Bởi các em còn nhỏ, tính tự lập chưa có, ý thức tự giác cũng chưa cao. Thêm một điều nữa là nhiều gia đình hiện nay luôn cưng chiều theo ý muốn của con,….Tất cả đã làm cho các em chưa biết tự giác cũng chưa biết được những hành động đúng sai trong học tập và trong kỉ luật. Mặt khác với những đặc điểm sinh lí lứa tuổi của lớp một: Các em còn nhỏ rất ngây thơ lại lạ trường, lạ lớp, lạ thầy cô, bạn bè cũng lạ, chưa biết tên các bạn, ….
Từ những yếu tô nêu trên tôi đã quyét định nghiên cứu và chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp một hòa nhập nhanh” làm sáng kiến kinh nghiệm.
Đề tài này bắt đầu nghiên cứu và khảo nghiệm từ đầu năm học 2014-2015, sau khi được Hội đồng khoa học cấp trường đánh giá có tính khả thi và cho phép tôi áp dụng đại trà vào năm học 2018-2019.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
Đề tài: “Bước đầu xây dựng kĩ năng hòa nhập tập thể cho học sinh lớp một – trường tiểu học …………” là một nội dung mới với mục tiêu sau:
– Giúp các em học sinh lớp 1 hiểu được nề nếp học tập tốt sẽ có ảnh hưởng đến kết quả học tập và rèn luyện của các em.
– Với các nội dung đã được thiết kế, giáo viên sẽ hình thành cho các em thói quen về nề nếp trong học tập cũng như nề nếp sinh hoạt của các em trong cuộc sống hàng ngày. Nhằm nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện đạo đức của các em làm cơ sở vững chắc để các em học tập ở các lớp trên.
– Hình thành kĩ năng sống cơ bản nhất để cac em hòa nhập tốt trong môi trường giáo dục và học tập tốt ở các lớp học trên.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu cụ thể của đề tài là học sinh lớp 1A. Trường Tiểu học …………
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Như tên gọi của đề tài là bước đầu xây dựng kĩ năng hòa nhập tập thể cho học sinh lớp một nên giới hạn nghiên cứu là học sinh khối lớp 1 năm học 2018-2019 và phạm vi nghiên cứu được thực hiện trong phạm vi của trường tiểu học. 5. Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành đề tài này tôi đã sử dụng rất nhiều phương pháp trong quá trình nghiên cứu nhưng sử dụng nhiều nhất là 3 phương pháp chính sau:
Phương pháp đọc sách và tài liệu:
Tôi tiến hành tham khảo những tài liệu nói về tâm sinh lý lứa tuổi học sinh lớp 1 để từ đó mới có kế hoạch xây dựng các biện pháp của đề tài.
Phương pháp trò chuyện:
Tôi dùng phương pháp này nhằm trò chuyện với đồng nghiệp, với phụ huynh học sinh và trò chuyện với các em để thu thập các minh chứng tâm sinh lý lứa tuổi lớp 1.
Phương pháp tổng kết:
Sau khi có được luận chứng từ các tài liệu kết hợp với minh chứng thu thập được tôi tổng hợp và phân tích kết quả sau do mới tiến hành lập kế hoạch triển khai thí nghiệm những biện pháp nghiên cứu.
PHẦN NỘI DUNG:
1. Cơ sở lí luận:
Mỗi lứa tuổi trẻ phát triển đều kèm theo sự thay đổi rất nhiều về cảm xúc, tâm lý, tình cảm.
Một là, chú ý có chủ định (tức chú ý có ý thức, chú ý vào việc học tập) của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú ý không chủ định (chú ý tự do) chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, dễ bị phân tán bởi những âm thanh, sự kiện khác ngoài nội dung học tập. Trẻ thường quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh, trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng,… Thời gian chú ý có chủ định chỉ kéo dài tối đa từ 25 đến 30 phút.
Hai là, tri giác các em mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không ổn định, tri giác thường gắn với hình ảnh trực quan. Vì vậy, chúng ta cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động mới, mang màu sắc, tích chất đặc biệt, khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác. Đây là một trong những đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 1 cần được khai thác và phát triển.
Ba là, tưởng tượng của học sinh lớp 1 đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng nhiều. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em vẫn còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi.
Bốn là, hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau.
Năm là, trong giai đoạn lớp 1,2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu.
Sáu là, ở đầu tuổi tiểu học hành vi mà trẻ thực hiện còn phụ thuộc nhiều vào yêu cầu của người lớn (học để được bố cho đi ăn kem, học để được cô giáo khen, quét nhà để được ông cho tiền,…) Khi đó, sự điều chỉnh ý chí đối với việc thực hiện hành vi ở các em còn yếu. Đặc biệt các em chưa đủ ý chí để thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra nếu gặp khó khăn.
Tóm lại, giai đoạn bước vào lớp 1 là bước ngoặt lớn trong cuộc đời của trẻ, có rất nhiều sự thay đổi trong tâm sinh lý cũng như tình cảm, vì vậy việc tạo cho các em một môi trường học tập thoải mái và đoàn kết là điều không hề dễ dàng
Ngay từ buổi đầu tiên đến lớp, khi trước mắt các em là một thế giới rộng lớn và xa lạ, khác hẳn với môi trường lớp học ở mẫu giáo là chỉ có cô và các bạn trong một lớp học. Điều này chính là yếu tố quan trọng nhất đanh vào cảm giác sợ hãi của các em làm cho các em đánh mất hết mọi niềm vui hay sự hào hứng. Nếu người giáo viên nhiệt huyết, có tâm, thường xuyên giáo dục, uốn nắn, rèn luyện cho các em thì cái tốt sẽ được hình thành và sẽ trở thành thói quen của các em, còn nếu các em không được thầy cô uốn nắn giáo dục đúng đắn thì những điều xấu cũng đến với các em rất nhanh và cũng sẽ trở thành những thói hư, tật xấu của các em mà sau này rất khó sửa chữa.
Từ nhận thức trên, yêu cầu người giáo viên phải thực sự là người yêu nghề mến trẻ, phải có lòng kiên trì để tìm ra các cách thức tối ưu nhất để xây dựng nề nếp học tập, sự hòa nhập tập thế cho mỗi em học sinh.
- 2. Thực trạng:
- Thuận lợi – khó khăn:
+ Thuận lợi:
Trường tiểu học ………… đối tượng học sinh ở đây chủ yếu thuộc địa bàn thị trấn, rất gần trường thuận lợi cho việc đi lại của phụ huynh trong quá trình đưa đón các em. Bên cạnh đó phần lớn các em đã học qua lớp Mẫu giáo, đã được làm quen với môi trường học tập nên không còn bỡ ngỡ nhiều nữa.
Phòng học, cơ sở vật chất của nhà trường khang trang, sạch đẹp giúp cho trẻ phấn khởi hơn khi đến lớp. Bên cạnh đó nhà trường luôn quan tâm về chất lượng học tập của các em là luôn có những biện pháp phù hợp để điều chỉnh cho các em tham gia học tập tốt hơn.
+ Khó khăn:
Lớp 1A có 35 học sinh nhưng đối tượng học sinh chưa được đồng đều. Trong lớp còn một số em học sinh nam hay nghịch. Bên cạnh đó đa số gia đình học sinh đều làm nghề nông nghiệp bố mẹ các em làm nông nên thường giao phó con cái cho nhà trường. Một số ít gia đình có bố mẹ làm ăn xa nên chưa quan tấm đến việc học tập con cái. Điều này gây không ít khó khăn cho giáo viên ngày từ những buổi đầu nhận lớp.
b.Thành công – hạn chế:
Cũng như tên gọi của đề tài là bước đầu xây dựng kĩ năng hòa nhập tập thể cho học sinh lớp một, nên thành công của đề tài là giúp các em nhanh chóng ổn định nề nêp lớp học ngày từ những buổi đầu như: Biết cách xếp hàng ra vào lớp nhanh, nghiêm túc. Biết vào lớp ngồi đúng vị trí của mình không chọc ghẹo bạn bên cạnh. Biết xin phép thầy, cô khi đi ra ngoài. Biết tên thầy cô và các bạn trong lớp, ngoài lớp, thực hiện đi học đều, đúng giờ, tự lấy đồ dùng học tập và đặc biệt biết giúp đỡ lẫn nhau trong học tập cũng như trong vui chơi. Đồng thời đã hạn chế được nhiều thói hư, tật xấu cho học sinh như: Nói chuyện riêng trong giờ học, đi học trễ, quên đồ dùng học tập, nói leo, nghỉ học tùy tiện, chạy ra khỏi chỗ trong giờ học hay lấy đồ dùng của bạn…
+ Hạn chế:
– Làm mất rất nhiều thời gian của giao viên khi thực hiện đề tài bởi để đưa các em vào khuôn khô một cách nhẹ nhàng nhưng nghiêm túc thì đòi hỏi giáo viên phải biết tâm lý từng em trong lớp (trong khi đó lớp rất đông, 35 em)
Giải pháp, biện pháp:
- Nội dung giải pháp:
Bước đầu làm quen với môi trường học mới là cả một sự vất vả lớn đối với các em. Vậy phải làm sao đây để các em sớm thích nghi với các môi trường, sớm có nề nếp học tập tốt? Chính vì vậy tôi đã tiến hành thực nghiệm một số biện pháp sau nhằm bước đầu xây dựng kĩ năng hòa nhập tập thể cho các em:
Biện pháp 1: Xây dựng nội quy lớp học.
Nội quy lớp học chính là bước đầu đưa các em vào một môi trường làm việc khoa học, có định hướng và có tổ chức.
Sau khi nhận lớp, tôi đã tiến hành tìm hiệu các văn bản liên quan đến việc giáo dục học sinh, tâm sinh lý lứa tuổi. Tiếp đó tôi tìm hiểu nhanh về đặc điểm của từng em trong lớp, tôi dành nhiều thời gian đấu giờ học, giờ giải lao để theo hỏi thái độ, tâm lý các em rồi mới bắt đầu xây dựng nội dung lớp học.
- Đến lớp trước thời gian chính thức 10 phút (để kiểm tra trang phục và vệ sinh cá nhân).
- Khi nghe trống vào lớp phải nhanh chóng xép hàng đúng quy định.
- Đã đến lớp không được đưa quà vặt đến lớp và ăn quà vặt trong lớp.
- Gặp người lớp phải khoanh tay chào lịch sự. Không nói tục nói trống không với mọi người.
- Trong giờ học phải hăng say phát biểu, có ý kiến phải giờ tay. Không nói ngang, nói chuyện riêng khi cô giáo giảng bài.
- Đoàn kết với bạn bè, hòa nhã vui vẻ, biết giúp bạn khi bạn cần giúp đỡ.
Sau khi có nội quy, tôi tiến hành in ra nhiều bản nhỏ lồng vào bông hoa và để các em dán đầu hàn học của mình.
Cứ đầu giờ học, tôi yêu cầu các em đọc nội quy một lần để ghi nhớ.
Tiếp đó tôi làm một bảng với tên gọi cây hoa thành tích bằng bìa roki dán ở cuối góc lớp. Cứ sau một tuần vào buổi sinh hoạt tôi lại cho các em tự đánh giá kết quả của mình và giáo viên nhận xét. Em nào hoàn thành xuất sắc sẽ được dán bông hoa lên cây hoa thành tích và được cả lớp vỗ tay.
Đến đâu tuần học sau tôi lại nêu gương những em đó và nhắc các em khác tiêp tục cónhiều bông hoa dán lên cây hoa thành tích đó.
Biện pháp 2: Lập kế hoạch học tập theo hình thức có chủ định.
Ngày sau khi có nội quy lớp học, tôi tiến hành cho các em bầu chọn ban cán sự lớp và các tổ nhóm để lớp thục hiện nhiệm vụ theo kế hochj của cô giáo đề ra. Cụ thể trong các tổ tôi sắp xép xen kĩ giữa các em nam và nữ; giữa các em đồng bào dân tộc với người Kinh; giừa những em hay nói với những em ít nói…
Ở tuần đầu ổn định tôi lựa chọn các chỗ ngồi cho học sinh phù hợp với thái độ từng em. Ví dụ xếp những em hay nghịch lên ngồi trên hay chỗ tiện cho giáo viên để bao quát. Xếp từ em thấp đến em cao. Cứ một em giỏi ngồi với một em yếu, một em khá ngồi với một em học lực trung bình, một em hay nghịch ngồi với một em ngoan…
Tuy nhiên trong kế hoạch đề ra tôi luôn lồng ghép các trò chơi học tập vào bài học và luôn vui vẻ tận tjuy với các em để tạo ra môt môi trường thân thiện. Làm cho các em có cảm giác ấm áp và gần gũi, hình ảnh cô giáo như mẹ hiền sẽ luôn sống mãi trong lòng các em.
Trường hợp những học sinh nào chưa vào khuôn khổ kịp tôi thường lấy bảng thành tích và nêu gương những em giỏi, ngoan để khích lệ. Đặc điểm của học sinh lớp 1 rất thích cô giáo khen trước lớp. Đây có thể được xem là một vũ khí hữu hiệu nhất của tôi để đưa những em chưa kịp hòa nhập với lớp đi vào nề nếp.
Tôi đã rât vất vả tìm hiểu hoàn cảnh của từng em để biết được nguyên nhân vì sao em này hay đi học muộn, vì sao em này chưa có đồ dùng, hay nghỉ học… Từ đó mới có hướng để động viên hay giúp đỡ. Để có biện pháp giáo dục hay nhắc nhở kịp thời, đúng lúc.
Cứ đầu giờ học, tôi đến sớm 15 phút theo nội quy đã học để năm bắt tình hình của lớp sau đó tổ chức dạy học phù hợp với thái độ các em. Để các em tiếp thu bài giảng một cách nhẹ nhàng và có hiệu quả cao.
Chẳng hạn sáng hôm đó có học sinh đến lớp không chịu vào lớp và khóc thì tôi đã dẫn các em vào và hỏi chuyện về nội quy lớp học, về những bôn hoa em đó đã đạt nhằm xua tan sự sợ hãi ban đầu. Trong giờ học tôi thường chú ý và tạo không khí vui vẻ để các em quên nhanh và tham gia học tập.
Ví dụ: Khi dạy bài vần Ắt, sau khi cho học sinh đọc nối tiếp đoạn “Dỗ bé”, tôi liền tổ chức một trò chơi nhanh là cho hai học sinh đóng vai, một em đóng vai khóc nhè, một em đóng vai chị dỗ giành em. Chính em lúc sánh khóc nhè sẽ nhập vai người chị.
Cứ như thế tối đã tèng bước đưa cac e vạo làm việc trên một kế hoạch có chủ định giúp các em hòa nhập nhanh.
Biện pháp 3: từng bước khắc phục những thói quen, nhược điểm ban đầu của các em để thực hiện tốt nhiệm vụ học tập
Do đặc điểm của học sinh lớp 1 buổi đầu tiên cắp sách đến trường nên hầu hết các em chưa có ý thức về nề nếp trong học tập. Việc học tập đối với các em hoàn toàn mới, lạ. Khác hẳn với ở lớp mẫu giáo. Nên giáo viên cần rèn cho các em có một thói quen về nề nếp. Nhưng giáo viên phải thể hiện được tình cảm dịu dàng, yêu thương thực sự, gần gũi với các em.
Chẳng hạn khi hướng dẫn các em cách xếp hàng vào lớp giáo viên xếp theo thứ tự em thấp đến cao theo tổ. Lớp trưởng hô điều khiển cả lớp. Tổ nào xếp hàng thẳng thì cho vào lớp trước. Tổ nào chưa thẳng hàng thì tự điều chỉnh lại hàng cho thẳng mới được vào lớp. Nhưng chắc chắn sẽ co một số em đứng chưa nghiêm túc hoặc chưa thẳng hàng. Lúc đó giáo viên sẽ là người trực tiếp hỏi em đứng như thế có giống bạn hay không và dó em làm sao để làm giống bạn. Tức thì em đó sec nhanh chóng vào hàng.
Việc sinh hoạt đầu giờ, tôi luôn tạo cho các em không khí tự quản, lớp trưởng, lớp phó sẽ có một bông hoa theo dõi bạn nào nói chuyện, làm việc riêng hay chạy ra khỏi chỗ thì bị đánh một dấu lên bông hoa đó và cuối tuần sinh hoạt sẽ trừ trong hoa thành tích.
Trong mỗi giờ học tôi luôn tạo cho các em không khí gần gũi và nhẹ nhàng để các em thực sự tin tưởng. Từ đó các em mới dễ gần gũi và xem cô giáo như mẹ hiền qua đó tôi mới nắm được những đoiểm sai, những thiếu sót mà các em còn mắc phải để từ đo có cách giúp đỡ, điều chỉnh cho các em hòa nhập vào lớp chuẩn mực hơn.
Biện pháp 4: giúp các em trau dồi hành vi đạo đức để góp phát phát triển nhân cách và kĩ năng sống
Việc giúp các em trau dồi hành vi đạo đức để góp phát phát triển nhân cách và kĩ năng sống được tôi xem là một nội dung trọng điểm trong quá trình giảng dạy của mình. Chính vì vậy tôi không thể thực hiện một mình và kết vợi với nhiều tổ chức cá nhân cùng giúp đỡ.
Ngoài những việc đã làm mà tôi nêu trên, tôi tiến hành trao đổi và hợp tác cùng một số tổ chức, cá nhân để giúp các em trau dồi hành vi đạo đức để góp phát phát triển nhân cách và kĩ năng sống
Thứ nhất: phối hợp với Sao nhi đồng.
Cứ mỗi buổi sinh hoạt sao nhi đồng theo chủ điểm, tôi thường trao đổi với giáo viên tổng phụ trách tổ chức những nội dung tăng cường kĩ năng sống cho các em như tổ chức thi kể chuyện về Bác Hồ, thi hát dân ca,… tôi làm cho mỗi tổ một bông hoa thành tích và đưa cho giáo viên tổng phụ trách đội nếu tổ nào làm tốt được giáo viên tổng phụ trách đội khen thì sẽ nhận xét vào bông hoa sau đó cho tổ trưởng đưa hoa vè lớp dán vào cây hoa thành tích. Số hoa của tổ nào nhiều sẽ là minh chức cuối tuần cả lớp cùng khen thưởng.
Ngoài việc bản thân trực tiếp giúp đỡ thì các tổ chức trong nà trường cũng là thành phần không thể thiếu trong việc giup các em phát triển nhân cach và kĩ năng sóng. Vì các em học sinh ở lớp 1 đa số là chờ vào sự quan tâm của thầy, cô và người lớn. Nên người giáo viên ngoài việc dạy kiến thức còn giúp cho các em hiểu và biết phân biệt được cái đúng, cái sai, điều tốt, điều xấu, những việc nên làm và không nên làm… Đó chính là rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh lớp 1.
Bên cạnh đó, hàng ngày, tôi còn phân công cho các em làm vệ sinh lớp học. Vào chiều thứ tư hàng tuần các lớp đi lao động vệ sinh sân trường. Để từ đó các em biết làm quen với những công việc đơn giản như: Biết quét nhà, quét sân, lau nhà, nhặt rác, nhổ cỏ,…Tôi luôn nhắc các em rửa tay, rửa chân đúng lúc hợp vệ sinh.
Cứ mỗi lần đến lớp tôi luôn làm trước và hướng dãn các em cùng làm. Giáo viên luôn làm gương sáng cho học sinh noi theo. Qua lời nói và từng việc làm cụ thể. Để chứng tỏ được “ Cô giáo như mẹ hiền”. Cô giáo là người mẹ thứ hai của các em.
Thứ hai: Trao đổi và hợp tác với phụ huynh học sinh.
Đây cũng là một nhiệm vụ rất cần thiết vì gia đình là cái nôi của xã hội là nơi hình thành nhân cách ban đầu cho các em nên tôi lấy đó làm điểm tựa và là nơi thường xuyên trao đổi với gia đình các em để cùng nhau gúp các em loại bỏ những thói quen sai và nhanh hòa nhập cới lớp để học tập tốt.
Cuối mỗi tuần học, tôi gửi cho phụ huynh một bông hoa thành tích và hướng dẫn phụ huynh động viên các em học tập vui chơi ở nhà. Nếu các em thực hiện chưa tốt thì tuần đó các em không được dán bông hoa lên cây thành tích. Và tôi sẽ giúp cac em điều chỉnh lại những sai trái đó.
Tóm lại: Giáo dục nề nếp cho học sinh phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng. Nhằm tạo ra một môi trường giáo dục khép kín, tạo ra bầu không khí đạo đức xung quanh trẻ. Để hình thành và phát triển tư tưởng, tình cảm, hành vi và thói quen về nề nếp học tập tốt hơn.
- Kết quả khảo nghiệm của vấn đề nghiên cứu:
Đầu năm học 2018-2019, tôi tiến hành lập kế hoạch và bắt đầu tổ chức các biện pháp trên thí điểm tại lớp 1A, tôi đã thấy nhiều kết quả rõ rệt:
– 100% học sinh biết xếp hàng ngay từ cuối tuần học đầu tiên.
– 100% học sinh tự giác vào lớp không có em nào nũng nịu bố mẹ hoặc khóc nhè.
– Tháng đầu tiên không có học sinh thiêu hoa thành thích. Các em đều đạt được nội dung mà giáo viên đặt ra. (35/35 bông hoa thành tích)
– 25/35 em không nói chuyện riêng trong giờ học.
– Tuần thứ 3 số học sinh quên đồ dùng học tập chỉ còn 6/35 em
II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, của vấn đề nghiên cứu:
Sau khi thực hiện các giải pháp, biện pháp nêu trên. Tôi nhận thấy học sinh lớp 1A5 do tôi chủ nhiệm. Đã có chuyển biến rõ rệt về nề nếp học tập cũng như chất lượng học tập. Trong giờ học, các em rất hứng thú, tích cực học tập hơn. Tất cả các em đều thực hiện tốt nề nếp như:
– Đa số các em đến lớp đúng giờ, học thuộc bài ở nhà, xem trước bài mới, có chuẩn bị tốt đồ dùng và làm bài tập đầy đủ.
– Biết xin phép cô khi ra vào lớp, biết giúp đỡ bạn trong học tập, biết giơ tay khi muốn phát biểu, không nói leo, nhặt của rơi trả lại cho người bị mất…
Như vậy bước đầu xây dựng kĩ năng hòa nhập tập thể cho học sinh, nhằm giúp hình thành nhân cách cho các em chủ động sáng tạo hơn trong học tập và trong vui chơi.
*Kết quả thu được cuối năm học 2018-2019:
– Về nề nếp:
Xếp loại
|
HS có nề nếp học tập tốt |
HS có nề nếp học tập chưa tốt |
Đầu năm
|
21 em (60%) |
14 em (40 %) |
Cuối năm học
|
35 em ( 100 %) |
0 em ( 0 %) |
– Về hạnh kiểm cuối năm học:
+ Thực hiện đầy đủ : 35 em ( tỉ lệ 100 %)
+ Thực hiện chưa đầy đủ: 0 em ( tỉ lệ 0 %)
– Chất lượng học tạp:
+ Xuất sắc toàn diện: 13/35 ( tỉ lệ 37,1%)
+ Có tiến bộ vượt bậc tỏng các môn học: 14/35 (tỉ lệ 40%)
– Về kết quả các phong trào khác:
+ Thi chữ đẹp cấp trường: có 01 giải nhì; 02 giải ba
+ Thi Tiếng anh cấp huyện: 1 giải nhì, 02 giải ba
Với kết quả học tập như trên ở cuối năm học, tôi đã thấy có sự thay đổi rất lớn trong lớp 1A5. Điều đó cho thấy rằng nhũng biện pháp tôi thực hiện đã có tính khả thi, do vậy tôi đã tiến hành thực hiện ngày từ đầu năm học 2015-2016 đối với lớp 1A3 và đã cho thấy rất nhiều có sự tiến bộ
– 100% học sinh biết xếp hàng ngay từ cuối tuần học đầu tiên.
– 100% học sinh tự giác vào lớp không có em nào nũng nịu bố mẹ hoặc khóc nhè.
– Tháng đầu tiên không có học sinh thiêu hoa thành thích. Các em đều đạt được nội dung mà giáo viên đặt ra. (35/35 bông hoa thành tích)
– 27/35 em không nói chuyện riêng trong giờ học.
– Tuần thứ 3 số học sinh quên đồ dùng học tập chỉ còn 4/35 em
PHẦN KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
III. 1. Kết luận:
Tổ chức cho học sinh lớp 1 biết hòa nhập nhanh mọi nội dung của lớp học và thực hiện tốt nhiệm vụ học tập và rèn luyện là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mỗi giáo viên. Nhưng để thực thiện được như thế thì mỗi giao viên lại có những phương pháp sư phạm khác nhau. Với tôi những biện pháp, giải pháp vừa trình bày ở trên tôi đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng trước khi tiến hành. Thậm chí sau một thời gian thí nghiệm cho thấy nhiều kết quả khả quan và tôi đã soạn thảo thành nội dung của một sáng kiến kinh nghiệm. Tôi đã trình bày những ý tưởng đó với Hội đồng khoa học cấp cơ sở và được đánh giá cao. Hội đồng khoa học đã cho phép tôi áp dụng đại trà tại lớp 1A của năm học 2018-2019. Sau một thời gian thực hiện, một kết quả tốt đẹp đã đến đó là: Lớp học đã có nề nếp học tập thực sự, sự chuyển biến rõ rệt về nề nếp học tập đã làm cho chất lượng giảng dạy được nâng cao: Giáo viên say sưa với bài giảng, học sinh hứng thú với bài học và điều hết sức quan trọng đó là chất lượng học tập của các em có tiến bộ rõ rệt, các em đoàn kết và thương yêu biết giúp đỡ lẫn nhau, lớp học có tính đồng đội, tính kỷ luật cao. Các em đã có thói quen tốt, có ý thức cao và chắc chắn rằng đây sẽ là cơ sở, là nền tảng để các em học tốt với những bài học hay cấp học sau này.
Với kết quả đã đạt được ở trên toi cảm thấy rất vui vì mình đã làm được những điều tốt cho lớp học, từng bước giúp các em hoàn thiện nhân sách và kĩ năng sống. tuy nhiên đây chỉ mới là một sáng kiến nhỏ. Tôi mong rằng sau này sẽ có nhiều giao viên nghiên cứ thành công những sáng kiến mang tính quy mô hơn để cùng góp phần dạy học tốt trong nhà trường.
Đề tài của tôi xin dừng lại tại đây, rất mong nhận đượcý kiến của Hội đồng khoa học giáo dục cấp huyện và bạn đọc.
III.2. Đề xuất:
– Đối với giáo viên cần quan tâm nhiều hơn nữ đén chất lượng học tập của các em, cần nhiệt tình giúp đỡ để các em chăm ngoa học tốt là con ngoan trò giỏi, là cháu ngoan của Bác Hồ Kính yêu.
– Nhà trường đưa ra các tiêu chuẩn thi đua về cách xây dựng nề nếp lớp học theo từng khối, lớp cụ thể. Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn để học hỏi kinh nghiệm của các giáo viên.
– Tổ chức Đội nên có kế hoạch tổ chức nhiều hộithi mang tính giao lưu cho sao nhi đồng nhằm tạo cho các em sân chơi tập thể vui vẻ cùng nhau tiến bộ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Sách giáo dục tâm lý học sinh tiểu học năm 2006.
2/ Bộ sách đạo đức (GV- HS) lớp 1.
3/ Sách TNXH (GV- HS) lớp 1.
- Một số tài liệu trên Internet (trích vào phân cơ sở lý luận)