Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ở trường Mầm non.
I.1 Lí do chọn đề tài.
Chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ là một nhiệm vụ quan trọng trong trường mầm non. Mục tiêu chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ mầm non là giúp trẻ em phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào học lớp một. Để trẻ phát triển cân đối, khỏe mạnh ngay từ đầu chúng ta cần phải có một chế độ dinh dưỡng ăn uống hợp lý.
Thời gian hoạt động, ăn, ngủ của trẻ ở trường mầm non chiếm tỷ lệ khá lớn so với thời gian trong ngày. Vì vậy, cùng với gia đình, trường mầm non có vai trò quan trọng trong việc chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ. Điều đó đòi hỏi mỗi cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên, nhân viên nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non cần có những kiến thức cơ bản về dinh dưỡng và sức khỏe của trẻ lứa tuổi mầm non. “Cẩm nang dinh dưỡng cho trẻ mầm non”.
Mỗi chúng ta ai cũng biết: “Sức khỏe là vốn quý nhất của con người”. Đặc biệt là đối với trẻ mầm non, sức khỏe của trẻ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: Chế độ dinh dưỡng, phòng bệnh, di truyền, môi trường… Trong đó chế độ dinh dưỡng là yếu tố có vai trò quyết định, ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển về thể lực và trí lực của trẻ. Thiếu ăn, ăn không đủ chất, dinh dưỡng không hợp lý kể cả thiếu hoặc thừa đều ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển của trẻ, do đó việc quan tâm đến chế độ dinh dưỡng của trẻ là việc làm cần thiết.
Giai đoạn lứa tuổi mầm non là cơ thể trẻ phát triển rất nhanh, các cơ quan của cơ thể đang trên đà hoàn thiện. Đây cũng là giai đoạn hình thành các thói quen, tập quán ăn uống và nhân cách của trẻ. Sức khỏe liên quan mật thiết với sự phát triển con người, sức khỏe tốt tạo điều kiện cho con người phát triển thể chất, học tập và lao động. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy trí nhớ, sự chú ý, sự cần cù trong học tập phụ thuộc rất nhiều vào trạng thái chung của sức khỏe và thể lực.
Nuôi dưỡng tốt là phải có cách để đảm bảo cho cơ thể có đủ chất dinh dưỡng, mà cách tốt nhất đảm bảo bữa ăn hợp lý, đủ lượng, đủ chất. Chính vì vậy hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục sức khỏe trong trường mầm non luôn được đặt lên hàng đầu.
Ở Trường Mầm non chúng tôi trong những năm học vừa qua công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trong trường mầm non có nhiều hạn chế về cơ sở vật chất và trang thiết bị đồ dùng phục vụ cho công tác nuôi dưỡng. Vì vậy từ giáo viên, cấp dưỡng đến các bậc phụ huynh đã và đang từng bước khắc phục khó khăn và thực hiện công tác tổ chức bán trú nhưng vẫn còn nhiều hạn chế trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ theo khoa học.
Trước thực trạng đó để nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ đạt hiệu quả, đó là sự băn khoăn trăn trở của ban giám hiệu nhà trường, tôi thấy vấn đề này cần được đào sâu nghiên cứu để tìm ra các giải pháp về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ nên tôi chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ở Trường Mầm non”
- Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
Nhà trường thường xuyên tổ chức hội thi cho trẻ như:“ Bé nhanh trí, bé tài năng”. Nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng chú trọng rèn luyện nề nếp cho trẻ đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Phối hợp với trạm y tế khám sức khỏe định kỳ và tiêm chủng mở rộng dịch sởi Ebulla, thường xuyên cân đo theo dõi biểu đồ tăng trưởng nhằm phát hiện trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, thể thấp còi và trẻ béo phì để tìm ra biện pháp trao đổi với phụ huynh học sinh về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ đòi hỏi phải xây dựng cơ sở vật chất và mua sắm trang thiết bị đảm bảo cho công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và tiến hành các bước xây dựng khẩu phần ăn thực hiện cho năm học 2014-2015 cụ thể như sau
– Ẩn định số năng lượng của độ tuổi được tính bằng Kcal, xác định nhu cầu chất dinh dưỡng tại trường cả ngày, tính Kcal cho từng độ tuổi.
– Lựa chọn cách cân đối Kcal thích hợp.
– Lên thực đơn 1 tuần
– Lựa chọn thực phẩm
– Bổ sung cho đạt năng lượng với dầu mỡ và đường
Hàng tuần, nhà trường phải công khai thực đơn cho cha mẹ biết để phối hợp cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ.
* Tổ chức tốt các bữa ăn ở nhóm lớp.
Bố trí địa điểm tổ chức bữa ăn cho trẻ từng nhóm lớp, nơi ăn phải thoáng mát, sạch sẽ, dễ dàng vận chuyển thức ăn và quan sát trẻ ăn.
Tổ chức bữa ăn cho trẻ giúp trẻ ăn ngon miệng và hết suất là công việc quan trọng nhằm nâng cao chất lượng sức khỏe trẻ.
Hướng dẫn giáo viên thực hiện tốt quy trình bữa ăn cho trẻ: Cho trẻ rửa sạch tay, sắp xếp bàn ghế có lối đi quanh bàn dễ dàng. Chuẩn bị khăn mặt, bát thìa, cốc uống nước đầy đủ cho số lượng trẻ. Trước khi chia thức ăn, cô cần rửa tay sạch, quần áo đầu tóc gọn gàng, cô chia thức ăn và cơm ra bát trộn đều thức ăn, không để trẻ chờ ăn lâu.
Trong khi ăn giáo viên vui vẻ, nói năng dịu dàng, tạo không khí thoải mái, khuyến khích trẻ ăn hết suất, kết hợp giáo dục dinh dưỡng, hành vi vệ sinh văn minh trong ăn uống; Dạy trẻ ăn biết mời cô và các bạn, ngồi ăn ngay ngắn, cầm thìa bằng tay phải tự xúc ăn một cách gọn gàng, ăn không rơi vãi ra, ăn từ tốn, nhai kĩ, không nói chuyện riêng trong khi ăn. Sau khi ăn cô hướng dẫn trẻ sắp bát, thìa, ghế vào nơi quy định, uống nước, lau miệng, lau tay sau khi ăn, sau khi đi vệ sinh.
Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên kiểm tra trẻ ăn để nắm bắt tình hình có biện pháp kịp thời.
Chăm sóc bữa ăn cho trẻ có tầm quan trọng đặc biệt nhằm làm cho trẻ ăn ngon, hấp thụ tốt các chất đạm cho sự phát triển của cơ thể, vì vậy nhà trường chỉ đạo đến giờ ăn giáo viên ở các nhóm lớp đã được phân công phải có mặt đầy đủ, phải có sự chuẩn bị trước khi ăn, chăm sóc trẻ ăn dọn dẹp vệ sinh sau khi ăn.
Chuẩn bị trước khi ăn tất cả dụng cụ đựng thức ăn như bát, thìa, thau, nồi phải được khử trùng qua nước sôi 1000C, cấp dưỡng phụ trách công việc chia cơm, chia thức ăn phải rửa tay sạch sẽ, chia xong phải có đậy nắp tránh ruồi, tránh bụi. Trước khi trẻ ăn giáo viên cho trẻ rửa tay bằng xà phòng sạch sẽ, sắp xếp bàn ăn, bố trí ngồi ăn của trẻ hợp lí, thuận tiện cho việc bao quát lớp, không nên bắt trẻ ngồi chờ quá lâu khiến trẻ mệt mỏi làm giảm sự thèm ăn của trẻ, cho trẻ ăn đúng bữa, đúng giờ.
Chăm sóc khi trẻ ăn: Cô giới thiệu các món ăn với trẻ, nói cho trẻ nghe ích lợi của các món ăn, khi ăn giáo viên động viên khuyến khích để trẻ ăn ngon miệng, ăn hết khẩu phần, cô cần chú ý xử lí nhanh những tình huống trẻ bị hóc, sặc có thể sảy ra. Đối với trẻ ăn chậm, biếng ăn cô phải quan tâm chú ý nhiều hơn. Trẻ càng bé việc tổ chức ăn càng phức tạp hơn.
Do đó đối với trẻ lớp mầm cô cần ngồi ở vị trí thuận tiện để thể bao quát những trẻ khác. Đối với trẻ suy dinh dưỡng, trẻ mới ốm dậy cô chú ý nhắc nhở để trẻ ăn hết suất.
Trong quá trình chăm sóc trẻ ăn cô chú ý rèn luyện cho trẻ các hành vi thói quen tốt như: Không nói chuyện trong giờ ăn, không để thức ăn rơi vãi, khi ăn phải nhai kĩ, không được vừa ăn vừa nói, qua đó hình thành cho trẻ có nề nếp trong bữa ăn và các hành vi thói quen tốt.
Vệ sinh sau khi ăn: Khi trẻ ăn xong cô hướng dẫn trẻ rửa tay lau miệng bằng khăn sạch, uống nước, chơi nhẹ nhàng. Cô thu dọn lau bàn ăn bằng khăn ướt, lau bàn ăn sau mỗi bữa ăn, bát thìa phải được rửa bằng nước rửa chén và rửa lại nhiều lần bằng nước sạch, phơi nắng cho khô sau đó cất vào nơi qui định. Hàng ngày ban giám hiệu cùng với y tế học đường thường xuyên kiểm tra giờ ăn theo dõi lượng thức ăn, cơm canh, thức ăn mặn sau mỗi bữa để tìm nguyên nhân và biện pháp khắc phục từ đó tạo điều kiện cho nhà trường dễ dàng trong công việc tổ chức nuôi dưỡng cũng như theo dõi sức khỏe của trẻ ngày một cách hiệu quả hơn.
* Tổ chức giờ ngủ.
Giấc ngủ của trẻ có ý nghĩa quan trọng trong việc phục hồi sức khỏe làm việc của hệ thần kinh, trẻ ngủ đủ giấc cũng là biện pháp hỗ trợ tích cực hấp thụ các chất dinh dưỡng. Tuy không thuộc lĩnh vực dinh dưỡng nhưng những trẻ em thiếu ngủ, ngủ ít, việc tiêu hóa, hấp thụ thức ăn sẽ kém, dễ gây ức chế ăn uống, ăn không ngon. Trẻ ngủ đủ giấc thì việc tận dụng chất dinh dưỡng để tái tạo và sản sinh tế bào mới tốt. Ăn đủ mà thiếu ngủ trẻ cũng chậm lớn, do đó việc quan tâm đến giấc ngủ của trẻ được nhà trường thường xuyên tổ chức tốt.
+ Chuẩn bị tốt cho trẻ trước khi ngủ.
Nền nhà được thường xuyên lau sạch hàng ngày, tránh gây mùi hôi tạo không khí trong lành để trẻ ngủ ngon giấc, phòng học phải mở cửa thoáng về mùa hè, ấm về mùa đông có đầy đủ nệm, chăn, gối để trẻ có thể ngủ ngon giấc.
+ Chăm sóc khi trẻ ngủ.
Để tạo cho trẻ có tinh thần thoải mái và đi vào giấc ngủ nhanh, trước khi ngủ cô có thể kể cho trẻ nghe một câu chuyện cổ tích, hát cho trẻ nghe những bài hát ru êm ái, dịu dàng đưa trẻ nhẹ nhàng vào giấc ngủ hoặc mở băng đĩa những bài hát ru trong chương trình mầm non, thiếu nhi. Khi trẻ mới ngủ cô nên tôn trọng thói quen, tư thế ngủ của trẻ, sau khi trẻ đã ngủ say cô mới nhẹ nhàng sửa lại tư thế để trẻ ngủ thoải mái, ngon giấc và đắp chăn cho trẻ ngủ nhất là về mùa đông cần quan tâm cho trẻ ngủ đủ thời gian theo yêu cầu của từng độ tuổi, trẻ 3-5 tuổi ngủ từ 11giờ đến 14 giờ.
Trong khi trẻ ngủ giáo viên phải có mặt bên cạnh để chăm sóc theo dõi tạo cho trẻ có giấc ngủ yên tĩnh, tránh tiếng động làm trẻ giật mình. Đối với những trẻ khó ngủ, ngủ ít, trẻ mới đi học cô nên cho trẻ nằm riêng, nằm cạnh cô để chăm sóc riêng không làm ảnh hưởng đến giấc ngủ của trẻ khác. Khi hết giờ ngủ cô cho trẻ thức dậy từ từ tránh đột ngột khi trẻ chưa tỉnh hẳn.
Trong quá trình tổ chức tốt bữa ăn, giấc ngủ cho trẻ, với tinh thần trách nhiệm cao của đội ngũ giáo viên trong nhiều năm qua nhà trường chưa để xảy ra một trường hợp tai nạn nào trong khi ăn uống như hóc, sặc và giờ ngủ của trẻ cũng luôn được đảm bảo theo qui định. Song vì điều kiện cơ sở vật chất chưa đầy đủ theo yêu cầu của ngành học, phòng học chưa đủ diện tích, chưa có phòng ngủ riêng cho trẻ nên chưa đáp ứng được yêu cầu như mong muốn. Sau khi trẻ ngủ dậy giáo viên cũng hướng dẫn cho trẻ vệ sinh cá nhân và thực hiện tổ chức ăn bữa xế theo trình tự như sự hướng dẫn của giáo trong bữa ăn chính. Sau khi trẻ ăn xong vệ sinh cá nhân sạch sẽ và cho trẻ hoạt động chiều ở mọi lúc, mọi nơi.
* Đảm bảo an toàn thực phẩm, vệ sinh nguồn nước sạch.
Để có được nguồn thực phẩm sạch, an toàn cho trẻ nhà trường tổ chức kí hợp đồng kinh tế mua bán thực phẩm với các cơ sở đã được cấp giấy chứng nhận, có biên bản hợp đồng đảm bảo tính pháp lí. Các thực phẩm mua về phải tươi ngon không dập nát, các loại thực phẩm đã chế biến sẵn phải có nguồn gốc rõ ràng.
Nhà trường xây dựng nội qui, quy chế nhà bếp, vệ sinh, bếp ăn, dụng cụ ăn uống, cấp dưỡng luôn giữ bếp ăn, đồ dùng tuyệt đối sạch sẽ, khăn lau bát, thìa phải được thay đổi mỗi ngày và luộc qua nước sôi trước khi sử dụng, cây lau nhà cũng phải được giặt thường xuyên. Cấp dưỡng thực hiện khi chế biến thức ăn phải rửa tay và rửa dao thớt, thức ăn chín cũng có thể bị nhiễm khuẩn khi tiếp xúc với thức ăn sống. Vì vậy những thực phẩm như cá ,thịt gà, thịt heo, thịt bò… phải được nấu kĩ, không nên để thức ăn quá nguội lạnh mới cho trẻ ăn như vậy thức ăn dễ bị nhiễm khuẩn, gây bệnh. Để đảm bảo an toàn vệ sinh an toàn thực phẩm trong nhà trường với những năm học tiếp theo cần tham mưu với ban đại diện phụ huynh và các cấp chính quyền địa phương di dời điểm trường và xây dựng bếp ăn một chiều để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phân công cấp dưỡng làm theo từng khu vực rõ ràng khi chế biến thức ăn, sau đó chia thức ăn, tuyệt đối không để lẫn lộn giữa thức ăn sống với thức ăn chín, kể cả dao thớt cũng phải dùng riêng và không để thức ăn dưới sàn nhà.
Hàng ngày nhân viên y tế học đường lưu mẫu thức ăn theo đúng quy định 24 giờ, mẫu thức ăn được lấy khi vừa nấu xong, khi vừa chia cho trẻ. Hộp đựng mẫu thức ăn phải rửa sạch và nhúng nước sôi sau đó mới cho mẫu thức ăn vào chờ cho mẫu thức ăn nguội mới đưa vào lưu giữ trong tủ lạnh, sau 24 giờ mới bỏ đi.
Hàng năm trường phối hợp với bệnh viện đa khoa trong huyện tổ chức khám sức khỏe cho toàn bộ giáo viên. cấp dưỡng nếu phát hiện ra bệnh có kế hoạch điều trị dứt điểm. Ngoài ra trường còn đầu tư mua sắm áo quần, tạp dè… cho cấp dưỡng sử dụng khi chế biến thực phẩm.
Đảm bảo đủ nguồn nước sạch cho sinh hoạt hàng ngày, trường có giếng nước hợp vệ sinh, lượng nước cho trẻ uống hàng ngày, nhà trường đã kí hợp đồng mua nước QUALITY đã được qua kiểm định chất lượng của cơ quan đảm bảo an toàn về vệ sinh thực phẩm, bình nước của các lớp đều có giá đựng, có tủ để ca cho trẻ uống nước sạch sẽ hợp vệ sinh.
Chính vì vậy trong nhiều năm qua trường vẫn duy trì được khâu vệ sinh đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, không có trường hợp nào bị ngộ độc do thức ăn và dịch bệnh lây lan trong nhà trường.
Bên cạnh đó Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên bồi dưỡng nâng cao kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm và phối kết hợp với y tế ở địa phương tổ chức cho cán bộ, giáo viên cô nuôi học tập kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm để nắm bắt thực hiện.
Tham khảo tài liệu, tranh ảnh có nội dung về vệ sinh an toàn thực phẩm, cách chọn thực phẩm tươi, sạch. 10 nguyên tắc vàng chế biến thực phẩm an toàn, những điều cần biết về VSATTP (Vệ sinh an toàn thực phẩm),10 lời khuyên ăn uống hợp lý, dinh dưỡng và bữa ăn của trẻ, tháp dinh dưỡng cân đối.
Nhà trường hợp đồng mua thực phẩm tươi và an toàn với các đơn vị cung cấp thực phẩm có uy tín. Triển khai đến từng cán bộ giáo viên, nhân viên thực hiện tốt công tác chăm sóc, nuôi dưỡng.
Chế biến phải rửa với nước sạch, nấu chín và đảm bảo chất dinh dưỡng.
Thực phẩm phải bảo quản tốt đề phòng nhiễm bẩn, ôi thiu.
– Xây dựng bếp ăn.
Giữa các khu có ngăn cách tránh gây ô nhiễm giữa các vùng, đảm bảo thuận tiện cho công tác làm vệ sinh.
– Tổ chức công tác đánh giá trẻ
+ Đánh giá sự phát triển của trẻ là quá trình cân đo hàng tháng, hàng quý, phân tích và đối chiếu trẻ suy dinh dưỡng, theo dõi biểu đồ làm cơ sở điều chỉnh kế hoạch, biện pháp chăm sóc, nuôi dưỡng nhằm đảm bảo sự phát triển của trẻ phù hợp với mục tiêu giáo dục đề ra.
+ Đánh giá trẻ hàng ngày:
Căn cứ vào mục đích yêu cầu về tổ chức hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ, giáo viên đánh giá trẻ theo những vấn đề sau: Tình trạng sức khỏe của trẻ, trạng thái cảm xúc hành vi, kiến thức, kỹ năng.
Phương pháp đánh giá: Quan sát theo dõi, trò chuyện với trẻ trong các giờ học, giờ ăn, giờ ngủ, trao đổi với phụ huynh trong giờ đón trẻ, trả trẻ.
+ Lưu kết quả đánh giá:
Đối với những trẻ đạt mục đích yêu cầu trong mục tiêu của từng lứa tuổi và các hoạt động để giáo viên theo dõi và đánh giá.
+ Đánh giá sau đợt cân đo:
Nội dung: Căn cứ vào mục tiêu và đối chiếu với kết quả cân đo của trẻ cần nêu rõ tên cá nhân trẻ đạt tốt hoặc trẻ suy dinh dưỡng trong lĩnh vực phát triển của trẻ.
Phương pháp: Tổng hợp cân sau từng đợt cân đo để biết kết quả của trẻ trao đổi với phụ huynh.
+ Lưu kết quả đánh giá:
Ghi chép nhận xét tổng hợp trong sổ cân do và theo dõi biểu đồ
+ Đánh giá cuối độ tuổi:
Thực hiện đánh trẻ ở tất cả các nhóm, lớp sau mỗi lần cân do trong năm học.
Đánh giá nội dung, phương pháp, lưu kết quả theo dõi biểu đồ.
* Công tác xây dựng cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng.
Cơ sở vật chất trong trường là một trong những điều kiện nhất định trong công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. Nếu trang thiết bị thiếu thốn sẽ ảnh hưởng đến kết quả chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, dựa trên cơ sở vật chất hiện có của nhà trường đối chiếu với nhu cầu và tiêu chuẩn của bậc học mầm non, nhà trường tích cực tham mưu với ban đại diện phụ huynh, các cấp lãnh đạo địa phương, xây dựng công trình vệ sinh có hệ thống thoát nước theo ống ngầm vào bể có nắp đậy hợp vệ sinh, có bếp ga, tủ đựng thức ăn, chén bát, giá đựng xoong nồi, thau chậu đảm bảo tránh được các côn trùng bò vào.
Nhờ có sự chỉ đạo sát sao và công tác tham mưu tích cực của ban giám hiệu, nhà trường cũng đã có được một khuôn viên tuy chưa được rộng rãi nhưng thoáng mát và rất sạch sẽ. Lãnh đạo nhà trường không dừng lại ở đó mà tich cực tham mưu, đề xuất với các cấp lãnh đạo UBND huyện, Phòng giáo dục, lãnh đạo địa phương quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ để di dời điểm trường sang nơi khác để trường có diện tích rộng rãi hơn.
* Tăng cường công tác kiểm tra.
Công tác kiểm tra là hoạt động không thể thiếu được trong nhà trường. Đối với việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ở trường Mầm non, việc kiểm tra của hiệu trưởng là rất cần thiết và hết sức quan trọng.Vì vậy hiệu trưởng đã xây dựng kế hoạch kiểm tra, thường xuyên tổ chức kiểm tra tổ nuôi dưỡng, kiểm tra bếp ăn, về chất lượng, số lượng thực phẩm, cách chế biến, kiểm tra khâu chia thức ăn, cách tổ chức bữa ăn, tổ chức giờ ngủ ở mỗi nhóm lớp. Đặc biệt kiểm tra chế độ thu chi ăn uống hàng ngày để phát hiện những sai sót trong chi ăn hàng ngày và có biện pháp điều chỉnh kịp thời.
Kiểm tra định kì và kiểm tra đột xuất, thống nhất trước nội dung và lịch kiểm tra. Ngoài ra trường còn tổ chức kiểm tra khi giao nhận thực phẩm, cân thức ăn hàng ngày từ khâu sơ chế đến khâu chia thức ăn để đảm bảo đủ số lượng thức ăn cân bằng trên mỗi nhóm lớp, theo sĩ số các lớp báo hàng ngày. Sau khi kiểm tra có nhận xét ra những ưu nhược điểm để tìm cách khắc phục những hạn chế và phát huy những kết quả tốt đã làm được nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng tốt hơn.
Vì vậy trong nhiều năm qua công tác kiểm tra trong nhà trường được duy trì thường xuyên nên không có trường hợp nào vi phạm khuyết điểm trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng. Song cũng không tránh khỏi đôi khi còn rập khuôn trong công việc chế biến thức ăn, nguồn thực phẩm còn phụ thuộc vào sẵn có từ địa phương.
* Đẩy mạnh phong trào thi đua trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng.
Hàng năm nhà trường thường xuyên tổ chức các hội thi cũng giúp những người tham gia hiểu rõ về các nguyên tắc chăm sóc, nuôi dưỡng giúp giáo viên, phụ huynh, học sinh học hỏi được nhiều kinh nghiệm từ đồng nghiệp và người xung quanh.
Trong những năm gần đây phong trào thi đua trong nhà trường hoạt động rất sôi nổi, nội dung thi đua rất đa dạng và phong phú như hội thi “ Bé khỏe, bé ngoan”, “ Bé tài năng nhanh trí”, thi trên mạng Internet thi “ Nữ công gia chánh” nhân ngày 8–3. Sau mỗi hội thi nhà trường đều trích một phần kinh phí cho giáo viên, cấp dưỡng và học sinh đạt giải nhằm động viên khuyến khích kịp thời. Ngoài ra nhà trường còn chỉ đạo đưa tỉ lệ giảm suy dinh dưỡng vào tiêu chuẩn thi đua hàng tháng để chị em tự bình bầu, xếp loại, nhằm thúc đẩy chị em tích cực chăm lo đến việc ăn uống, dinh dưỡng cho trẻ nhất là với trẻ bị thấp còi, suy dinh dưỡng, đồng thời giúp giáo viên, cấp dưỡng nâng cao tay nghề về cách chế biến thức ăn, cách nấu ăn. Nhờ vậy mà hiện nay công tác thi đua cũng góp phần quan trọng trong việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm học hàng năm và đề nghị cấp trên khen thưởng.
* Các lực lượng kết hợp hỗ trợ.
Nuôi dưỡng trẻ trong trường mầm non rất cần sự hỗ trợ giúp đỡ của gia đình, cộng đồng về mọi mặt. Gia đình là nơi trực tiếp nuôi dạy trẻ cùng với nhà trường cần có mối quan hệ khăng khít với nhau về nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Để có được sự giúp đỡ đó, nhà trường có trách nhiệm tuyên truyền rộng rãi đến các bậc phụ huynh về kiến thức chăm sóc, nuôi dưỡng con theo khoa học để họ hiểu được tầm quan trọng của việc nuôi trẻ những hình thức như: Qua trao đổi hàng ngày giữa giáo viên và phụ huynh trong giờ đón, trả trẻ, thông qua bảng tin góc tuyên truyền của các lớp, qua các buổi họp phụ huynh, bảng công khai thực đơn và tài chính hàng ngày của trường.
Nhà trường cũng làm tốt công tác tham mưu với chính quyền địa phương về các hoạt động công tác chăm sóc, nuôi dưỡng của trường. Kết hợp với bệnh viện đa khoa khám sức khỏe cho giáo viên và cô nuôi, trạm y tế địa phương khám sức khỏe định kì cho trẻ 2 lần/ năm, y tế học đường phối kết hợp với giáo viên 3 tháng cân, 6 tháng đo trẻ một lần để tiện theo dõi bằng biểu đồ tăng trưởng, nếu trẻ ở kênh C có kế hoạch bồi dưỡng kịp thời tránh tình trạng trẻ bị suy dinh dưỡng
Tổ chức tốt các buổi họp giáo viên, cấp dưỡng, phụ huynh để tìm ra phương pháp tối ưu để chăm sóc trẻ suy dinh dưỡng, mở lớp tập huấn chuyên đề về dinh dưỡng để trao đổi kinh nghiệm nuôi dạy trẻ theo khoa học.
Nhà trường tạo điều kiện cho cấp dưỡng tham gia học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ tay nghề.
Tuyên truyền vận động phụ huynh học sinh, công ty, doanh nghiệp đóng trên địa bàn hỗ trợ thêm kinh phí mua sắm trang thiết bị đồ dùng phục vụ cho công tác chăm sóc, nuôi dưỡng. Kết hợp với trạm y tế địa phương kiểm tra sức khỏe định kì, công tác vệ sinh và an toàn vệ sinh thực phẩm trong nhà trường.
Thực hiện công tác khen thưởng kịp thời trong các phong trào thi đua của nhà trường.
Trong những năm học qua nhà trường đã thực hiện tuyên truyền về công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, hầu hết các bậc phụ huynh đều hiểu rõ tầm quan trọng của việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ trong nhà trường, có nhiều sự quan tâm của phụ huynh học sinh hơn tạo thuận lợi cho nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
* Phối hợp với với cha mẹ trẻ trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ
– Phối hợp chương trình chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ sức khỏe cho trẻ.
– Phối hợp thực hiện chương trình chăm sóc giáo dục trẻ.
– Phối hợp kiểm tra đánh giá công tác đánh giá công tác chăm sóc, giáo dục trẻ của trường.
– Tham gia xây dựng cơ sở vật chất.
* Phối hợp của nhà trường với gia đình.
– Thông qua góc tuyên truyền.
– Thông qua trao đổi trực tiếp với cha mẹ trẻ.
* Thưc hiện chế độ chính sách, bảo vệ quyền trẻ em.
– Nghiên cứu các văn bản chỉ đạo của nhà nước, của sở, ngành giáo dục.
– Quán triệt trong tập thể hội đồng sư phạm nhà trường các chế độ chính sách đối với trẻ mầm non và luật bảo vệ chăm sóc trẻ em.
– Tuyên truyền đến cha mẹ trẻ và cộng đồng xã hội các chế độ chính sách theo quy định.
Năm năm học 2014-2015 được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu nhà trường, ban đại diện phụ huynh, quan tâm đến chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng giáo trẻ, luôn động viên giáo viên tìm ra những phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động thông qua bữa ăn hàng ngày, tổ chức các hội thi về “dinh dưỡng”, “Bé tài năng nhanh trí” tập huấn các chuyên đề để đúc rút những kinh nghiệm, trao đổi với đồng nghiệp và tìm hiểu qua sách báo, mạng Internet… Trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng đã mua sắm một số đồ dùng phục vụ cho nhà bếp và các cháu đặc biệt thông qua các tranh ảnh, bảng tin về dinh dưỡng nhu cầu cần cung cấp cho trẻ hàng ngày để phụ huynh nắm được một số kiến thức cơ bản và kết hợp với nhà trường để làm tốt công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ.
– Bồi dưỡng đội ngũ về nâng cao nhận thức và kiến thức.
Tổ chức cho trẻ ăn bán trú tại trường là nhiệm vụ của cán bộ quản lí, giáo viên, cấp dưỡng nên ngay từ đầu năm học trường kết hợp với trung tâm y tế huyện tổ chức cho toàn bộ đội ngũ trong nhà trường học tập về vệ sinh an toàn thực phẩm, thông qua các buổi họp chuyên môn, hội đồng, để triển khai về điều lệ trường mầm non, công ước về quyền trẻ em và các văn bản của ngành về công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Giúp giáo viên nắm được chế độ dinh dưỡng đối với những loại thức ăn nào giàu dinh dưỡng.
– Bồi dưỡng kiến thức về nuôi dưỡng.
* Đối với giáo viên.
Khi trẻ đến trường không những học tập và vui chơi mà phải được chăm sóc từng bữa ăn đến giấc ngủ và chế độ sinh hoạt hàng ngày nên nhà trường đã phổ biến kiến thức chăm sóc, nuôi dưỡng đến toàn thể cán bộ giáo viên, công nhân viên trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, hội đồng, tập huấn chuyên đề nhằm giúp giáo viên làm tốt công tác chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ tốt hơn.
Hàng năm nhà trường chỉ đạo giáo viên lồng ghép tích hợp chuyên đề dinh dưỡng vào các môn học như: Khám phá khoa học tìm hiểu về một số loại rau, củ quả…, nhằm giúp trẻ hiểu được ích lợi của những nguồn thực phẩm mà trẻ biết. Đồng thời triển khai cho giáo viên thực hiện các hoạt động vui chơi, tổ chức các trò chơi có liên quan đến vấn đề dinh dưỡng,hoạt động góc như; Trò chơi nấu ăn, chơi bán hàng giúp trẻ nhớ lại kiến thức cô đã dạy. Sau khi triển khai nhà trường tổ chức kiểm tra định kì hàng tháng, hàng tuần, kiểm tra đột xuất để kịp thời sửa chữa những thiếu sót tồn tại và rút ra những bài học kinh nghiệm để làm tốt công tác nuôi dưỡng được tốt hơn.
* Đối với cấp dưỡng.
Có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có đầy đủ kiến thức về dinh dưỡng trong các bữa ăn, tham gia các lớp tập huấn, các buổi trao đổi về dinh dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm, cách chế biến các món ăn phù hợp với trẻ. Ngoài ra còn nghiên cứu về bảng phân loại bốn nhóm thức ăn: Đạm, đường, béo, vitamin, muối khoáng để có thể chọn lựa, mua sắm các thực phẩm cho phù hợp mang lại giá trị dinh dưỡng cao và sưu tầm các tài liệu về chế biến các món ăn để cấp dưỡng tranh thủ nghiên cứu nhằm nâng cao tay nghề trong nấu ăn.
* Chế độ sinh hoạt trong ngày của trẻ.
Chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ là một qui trình hoạt động trong ngày cũng như việc ăn. ngủ, nghỉ ngơi một cách hợp lí. Vì thế xây dựng và thực hiện chế độ sinh hoạt hàng ngày có ý nghĩa quan trọng trong giáo dục toàn diện đối với trẻ, vào đầu năm học nhà trường chỉ đạo giáo viên xây dựng chế độ sinh hoạt phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của trẻ ở từng độ tuổi và phải phù hợp với tình hình thực tế của trường.
Chế độ sinh hoạt được thực hiện một cách thường xuyên nhằm góp phần hình thành các thói quen hành vi, vệ sinh, tính tổ chức kỉ luật và một số đức tính tốt để tạo nên kỹ năng sống ở trẻ.
Ngoài ra giáo viên cần cho trẻ tham gia đầy đủ các hoạt động trong ngày, tạo cho trẻ tâm trạng thoải mái, vui vẻ… Đồng thời chỉ đạo cho giáo viên phải thường xuyên kết hợp với phụ huynh cùng thực hiện chế độ sinh hoạt đúng giờ có hiệu quả.
* Tổ chức các hoạt động nuôi dưỡng.
Thực hiện chế độ dinh dưỡng.
Dinh dưỡng là cung cấp thực phẩm, những nguyên liệu cần thiết cho ăn, uống cung cấp năng lượng, dinh dưỡng để cơ thể phát triển và hoạt động. Ngoài ra ăn uống còn cung cấp Vitamin, muối khoáng là những chất cần thiết cho sự phát của cơ thể. Nếu thiếu hoặc thừa những chất nói trên đều có thể gây bệnh hoặc ảnh hưởng bất lợi cho sức khỏe. Hiểu rõ được tầm quan trọng đó nhà trường đã thực hiện chế độ một cách hợp lí. Phân công phó hiệu trưởng phụ trách công tác nuôi dưỡng, qui định chế độ dinh dưỡng đối với từng độ tuổi và thực tế sức khỏe của trẻ, phù hợp với các mùa trong năm và rau, củ quả của địa phương. Đối với trẻ mới ốm dậy, trẻ suy dinh dưỡng hàng ngày hàng tuần có kế hoạch bồi dưỡng, điều chỉnh thực đơn để phù hợp với trẻ và vận động phụ huynh tăng thêm tiền ăn hàng ngày cho trẻ từ 12.000đ lên 15.000đ. Về mùa hè, thời tiết nóng cho trẻ ăn các loại thực phẩm như rau ngót, rau má, rau đay, mồng tơi…Ngoài ra trường giành một phần đất ở ngoài khuôn viên trường để trồng thêm rau xanh, nhằm cải thiện bữa ăn cho trẻ và đảm bảo nguồn rau sạch trong trường. Xây dựng thực đơn theo mùa, tận dụng nguồn thực phẩm sản xuất tại trường, tại địa phương, khuyến khích cán bộ giáo viên, công nhân viên trồng rau sạch tại gia đình và bán lại cho nhà trường vừa rẻ về kinh tế, đảm bảo an toàn về thực phẩm.
Hàng tháng, hàng tuần, hàng ngày nhà trường tính khẩu phần ăn bằng phương pháp ghi sổ để theo dõi định lượng Kcal. Các chất dinh dưỡng nếu chưa đảm bảo, chưa cân đối tỉ lệ giữa năng lượng và chất dinh dưỡng, giữa chất đạm, chất béo của động vật và thực vật để có kế hoạch điều chỉnh cho phù hợp. Qua đó trường còn biết lựa chọn các thực phẩm giàu dinh dưỡng để thay thế những thực phẩm ít dinh dưỡng làm tăng thêm khẩu phần năng lượng và dinh dưỡng vào cơ thể trẻ.
Trường hợp đồng kinh tế an toàn thực phẩm và chỉ đạo thực hiện đúng cam kết về vệ sinh an toàn thực phẩm. Việc tiếp phẩm theo đúng thực đơn hàng ngày, có sự kiểm tra chặt chẽ của ban giám hiệu nhà trường về số lượng và chất lượng. Thực phẩm phải tươi sống, giá cả hợp lí, tuyệt đối không mua thực phẩm không rõ nguồn gốc, ôi thiu, không rõ hạn dùng hoặc quá hạn sử dụng. Không mua thực phẩm đã qua sơ chế biến nhưng không ghi rõ nguồn gốc nơi sản xuất…Hàng tháng tổ chức họp bán trú rút kinh nghiệm trong tổ nuôi dưỡng, công khai tài chính rõ ràng, kịp thời không để thất thoát làm ảnh hưởng đến chế độ ăn của trẻ.
Chế biến thức ăn cho trẻ cần thực hiện nghiêm túc theo 10 nguyên tắc vàng trong chế biến thực phẩm an toàn từ khâu vệ sinh cá nhân, người chế biến phải ăn mặc quần áo, đầu tóc gọn gàng, rửa tay bằng xà phòng trước và sau khi chế biến thức ăn, thực phẩm trước khi chế biến phải được rửa bằng nước sạch, rửa xong mới cắt, đảm bảo kĩ thuật chế biến, để không bị hao hụt chất dinh dưỡng, đảm bảo các món ăn ngon miệng. Các loại rau khi nấu không để quá chín sẽ làm giảm lượng VitaminC.
Khi nấu phải đậy vung, đảo đều tay, nấu cơm đổ vừa nước không chắt nước cơm, khi chín cho trẻ dùng luôn. Người nuôi dưỡng thường xuyên rút kinh nghiệm, cải tiến kĩ thuật chế biến các món ăn, thay đổi cách chế biến hàng ngày để tạo cho trẻ các món lạ ăn ngon miệng, ăn hết xuất của mình. Ngoài ra trường còn thường xuyên tuyên truyền bằng nhiều hình thức như: Qua các buổi họp phụ huynh, qua bảng tin dinh dưỡng của trường để phụ huynh hiểu và hỗ trợ thêm kinh phí ,tăng khẩu phần ăn cho trẻ hàng ngày và vận động phụ huynh đóng góp thêm tiền ăn cho trẻ, uống thêm sữa vào buổi sáng. Đối với các cháu ở điểm lẻ thì chưa thực hiện ăn bán trú thì vận động phụ huynh cho trẻ ăn thêm các chất dinh dưỡng và bổ sung uống sữa hàng ngày để tạo điều kiện tăng thêm lượng dinh dưỡng vào trong cơ thể trẻ. Nhà trường còn kết hợp với trạm y tế tổ chức khám sức khỏe cho trẻ theo định kì 2 lần/1 năm.
- Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Qua nghiên cứu thực hiện nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ở trường Mầm non tôi thấy tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng nhẹ cân từ 10,3% xuống 6,7%; Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi: 9,7% xuống 7,7%
1, Kết luận.
Công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ở trường Mầm non cho thấy đội ngũ giáo viên, cấp dưỡng đã có những thay đổi trong công tác chăm sóc trẻ, đã chú ý đến đặc điểm tâm sinh lí của từng trẻ, đến nhu cầu cá tính của mỗi trẻ trong những bữa ăn, tạo cơ hội cho trẻ ăn ngon, ngủ ngon, môi trường chăm sóc từng bước được cải thiện rõ rệt.
Chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ trong nhà trường phần lớn phụ thuộc vào sự chỉ đạo sát sao của ban giám hiệu nhà trường và lòng nhiệt tình của đội ngũ giáo viên, cấp dưỡng và sự nhận thức của các bậc phụ huynh, trong đó hiệu trưởng là người đứng đầu trong công tác chỉ đạo điều hành. Đặc biệt đối với công tác chăm sóc, nuôi dưỡng đang được nhà trường quan tâm và chỉ đạo công việc này muốn thực hiện được cần nhiều yếu tố, điều kiện trong đó yếu tố quyết định nhất vẫn là sự quản lí, chỉ đạo chặt chẽ sát sao của hiệu trưởng. Hiệu trưởng phải nắm vững các nội dung, biện pháp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ phấn đấu xây dựng về cơ sở vật chất, sáng tạo trong công việc, khắc phục mọi khó khăn để tìm ra nhiều biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ nhằm góp phần thực hiện mục tiêu chung của bậc học mầm non và đưa chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trong trường Mầm non đạt hiệu quả cao hơn.
Muốn đạt kết quả cao trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng tốt đòi hỏi mỗi cán bộ giáo viên, công nhân viên đều nâng cao nhận thức, ý thức được trách nhiệm của mình trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng được giảm dần so với năm học trước, số trẻ học bán trú ngày càng tăng, ý thức và trách nhiệm của phụ huynh học sinh ngày được nâng cao.
Cán bộ quản lí phải tâm huyết với nghề nghiệp, nắm bắt những cái mới, lên kế hoạch chỉ đạo kịp thời và xây dựng các chương trình hành động phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế của nhà trường và của địa phương. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xây dựng kế hoạch kiểm tra một cách khoa học, nắm bắt và xử lí thông tin kịp thời, có sự điều chỉnh nếu sai sót, hạn chế, tạo điều kiện giúp đỡ các bộ phận nuôi dưỡng hoàn thành nhiệm vụ được giao. Từng bước đổi mới, sáng tạo về công tác chăm sóc, nuôi dưỡng của giáo viên và cấp dưỡng.
Bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ giáo viên học tập trao đổi kinh nghiệm nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ.
Tổ chức tốt các hội thi về dinh dưỡng, xây dựng thực đơn phù hợp với tình hình thực tế của nhà trường để nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ.
Tuyên truyền về kiến thức chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ theo khoa học cho các bậc phụ huynh, vận động và làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, phối kết hợp với cha mẹ học sinh hộ trợ kinh phí mua sắm trang thiết bị phục vụ cho công tác nuôi dưỡng để giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng mức thấp nhất.
Phải có tổng kết, khen thưởng động viên kịp thời với những giáo viên, nhân viên, học sinh đạt được thành tích cao.