Một số biện pháp rèn kĩ năng dùng từ đặt câu trong phân môn luyện từ và câu lớp 4

Một số biện pháp rèn kĩ năng dùng từ đặt câu trong phân môn luyện từ và câu  lớp 4

PHẦN MỞ ĐẦU

I.1. Lý do chọn đề tài.

          Ở bậc tiểu học,  môn Tiếng Việt có vai trò nền tảng cho học sinh rèn luyện, trau dồi, phát huy vốn ngôn ngữ mẹ đẻ. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một trong những mục tiêu của môn Tiếng Việt. Chính vì vậy mà khi các em đã đọc viết tương đối thông thạo ở các lớp 2, 3 thì việc hướng dẫn các em mở rộng vốn từ, sử dụng vốn từ vào việc rèn luyện viết câu, giao tiếp, trao đổi…ở các lớp 4, 5 là điều quan trọng.

          Theo chương trình đào tạo mới, việc cung cấp từ cho học sinh không còn theo dạng bài học từ ngữ như chương trình cũ mà mỗi bài học là những bài tập thực hành không những giúp các em tiếp nhận vốn từ mới mà còn định hướng cho các em thông qua các bài thực hành để mở rộng, bổ sung một số vốn từ mới, các thành ngữ, tục ngữ, ca dao,… theo từng chủ đề mà các em đang học. Đây chính là cơ hội để học sinh sáng tạo trong việc tìm tòi, học hỏi, tích lũy, hiểu rộng hơn vốn từ cho mình.

          Như chúng ta đã biết từ là một đơn vị trung tâm của ngôn ngữ, vai trò của từ trong hệ thống ngôn ngữ quy định tầm quan trọng trong việc dạy từ ở tiểu học. Không có một vốn từ đầy đủ thì không thể nắm ngôn ngữ như một công cụ giao tiếp. Vì vậy, việc bồi dưỡng kiến thức kĩ năng cho học sinh trong môn Tiếng Việt nói chung và phân môn luyện từ và câu nói riêng là rất quan trọng. Điều mà làm cho học sinh lúng túng là học sinh làm các bài tập nhận biết từ, câu. Vì đây là dạng kiến thức  hay sử dụng nhất khi làm tập làm văn.

      Việc hướng dẫn học sinh tiểu học đặt câu, xác định thành phần câu, chữa câu sai trong quá trình dạy học Tiếng Việt bậc tiểu học đã và đang đặt ra nhiều suy nghĩ. Vì vậy tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng dùng từ đặt câu trong phân môn luyện từ và câu  lớp 4” làm sáng kiến kinh nghiệm để tích lũy kinh nghiệm cho bản thân và cùng đồng  nghiệp tham khảo.

I.2 . Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu.

      – Mục tiêu của đề tài đưa ra các phương pháp rèn luyện kĩ năng dùng từ đặt câu trong phân môn luyện từ và câu nói riêng và môn tiêng việt nói chung.

      – Nhiệm vụ của đề tài tạo ra phương pháp dùng từ đặt câu giúp cho học sinh nhận ra được những lỗi mà mình thường mắc phải khi dùng từ đặt câu để dần hoàn thiện vốn từ ngữ cho các em. Để từ đó đẩy mạnh nâng cao chất lượng giáo dục .

I.3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài.

– Phân môn luyện từ và câu của chương trình tiếng việt lớp 4 bậc tiểu học  theo  chuẩn kiến thức kĩ năng.

– Học sinh bậc tiểu học nói chung đặc biệt là học sinh lớp 4B năm học 2013 – 2014 của trường TH ……….. do bản thân trực tiếp giảng dạy. Để từ đó nâng cao chất lượng bộ môn Tiếng Việt trong nhà trường.

I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài.

          – Đề tài này đưa ra phương pháp dùng từ đặt câu đúng cấu trúc và đủ các thành phần cấu trúc nên câu trong phân môn luyện từ và câu của học sinh lớp 4.

– Phạm vi rộng đề tài cũng áp dụng cho cho phân môn luyện từ và câu của môn Tiếng Việt lớp 4, 5 chương trình tiểu học.

I.5. Phương pháp nghiên cứu.

          – Từ những cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của nhà trường.

          – Từ quan sát của bản thân trong quá trình giảng dạy bộ môn.

          – Qua khảo sát thực tế học sinh của nhà trường đến những hiểu biết kết hợp với những kinh nghiệm bản thân hơn 14 năm làm công tác giảng dạy bản thân đã tìm tòi để đưa ra các nội dung giải pháp, biện pháp thực hiện theo nguyên tắc thực nghiệm.

          –  Qua trao đổi với bạn bè đồng nghiệp.

 

PHẦN NỘI DUNG

1.Cơ sở lí luận.

        – Thực tiển qua nhiêu năm công tác tôi thấy hầu hết học sinh chú trọng học môn Toán nhiều hơn Văn. Cách dùng từ đặt câu của học sinh còn lủng củng không có bố cục rõ ràng thường nhầm lẫm các thành phần câu.Bên cạnh đó việc đổi mới phương pháp dạy học đã làm phân hoá triệt để đối tượng học sinh, học sinh yếu kém về vốn từ. Hiểu được vấn đề này, người giáo viên biết vận dụng tích hợp vào các phân môn trong Tiếng Việt sẽ có tác dụng kép. Vì vậy để phát huy mặt tích cực của quan điểm này, tôi đã tích hợp thường xuyên kiến thức Luyện từ và Câu giúp học sinh có thêm vốn từ ngữ. Qua đó, HS hiểu nghĩa của từ, mở rộng thêm vốn từ và có ý thức sử dụng đúng từ ngữ, viết văn tròn câu, đúng chính tả (đúng ngữ , nghĩa) …Hiểu được vấn đề đó tôi mạnh dạn đề xuất nghiên cứu đề tài này nhằm giúp cho học sinh rèn luyện cách dùng từ đăt câu.

II.2.  THỰC TRẠNG.

  1. Thuận lợi – khó khăn.

a.1.Thuận lợi.

– Đối với BGH nhà trường luôn chỉ đạo sát đúng về kế hoạch chuyên  môn của PGD và kế hoạch thực hiện cuộc vận động xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đội ngũ giáo viên thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của mình.

– Nhà trường tổ chức dạy học hai buổi tạo điều kiện tốt để giáo viên có thời gian nhiều hơn để nắm bắt và phụ đạo học sinh yếu kém.

          – Phần lớn giáo viên thực hiện nghiêm túc nội quy, gương mẫu, nhiệt tình, tận tụy, say mê và luôn lo lắng tìm tòi học hỏi, tự bồi dưỡng để đáp ứng yêu cầu của công tác giảng dạy theo chuẩn kiến thức và kĩ năng chương trình của BGD nói chung và của bộ môn Tiếng Việt nói riêng. Từ đó giải quyết nâng cao chất lượng giờ dạy. Hiện nay nhà trường, BGH quan tâm hàng đầu đó là: Nâng cao chất lượng cho đối tượng học sinh yếu kém giảm tỉ lệ học sinh phải thi lại, lưu ban, hạn chế tình trạng học sinh bỏ học.

          – Phần lớn học sinh của trường  có truyền thống ngoan, hiếu học, đam mê tìm tòi, hứng thú học tập, ham học hỏi nghiên cứu tìm tòi kiến thức mới.

a.2. Khó khăn.

– Là một trường đang trong thời kì xây dựng trường chuẩn điều kiện cơ sở vật chất trang thiết bị vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu hiện nay như phòng học và phòng chức năng….

– Đặc biệt là sự co rút học sinh do tình hình thực tế của địa phương.

– Đối với phụ huynh học sinh thì chưa quan tâm đến việc học tập của con em, chưa đầu tư cho các em học tập còn giao khoán cho nhà trường nên một số  học sinh đã không chú ý tới việc học.

– Tỉ lệ học sinh yếu kém nhà trường  vẫn còn .

 

3.  GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP

  1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp

           – Giúp cho học sinh nhận ra được những lỗi mà mình thường mắc phải khi dùng từ đặt câu để dần hoàn thiện vốn từ ngữ cho các em.

  1. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.

b.1.Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học.

          – Đổi mới phư­ơng pháp dạy học là: Đổi mới cách tiến hành các phương pháp, đổi mới các ph­ương tiện và hình thức triển khai phư­ơng pháp trên cơ sở khai thác triệt để ­ưu điểm của các ph­ương pháp cũ và vận dụng linh hoạt một số ph­ương pháp mới nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động sáng tạo của ng­ười học. Chính vì vậy mà giáo viên khi dạy phân môn Tập làm văn, phải coi trọng yếu tố thực hành nói và viết trong suốt quá trình dạy ( chú trọng luyện nói ). Nghĩa là, dạy cho học sinh kĩ năng trình bày văn bản. Mỗi tiết dạy phải giảm sự giảng giải của giáo viên, tăng thời gian hoạt động cho học sinh (đặc biệt là hoạt động giao tiếp). Dạy Tập làm văn phải giúp cho học sinh sản sinh văn bản có cảm xúc, chân thực thì khi nói và viết mới thuyết phục đ­ược ngư­ời nghe, ngư­ời đọc. Cụ thể là:

         + Ở Tiểu học, các em học chủ yếu các kiểu bài tập làm văn thuộc thể loại: kể chuyện, miêu tả, viết thư, ­… Đây là thể loại văn thuộc phong cách nghệ thuật nên đòi hỏi bài nói, bài viết phải giàu cảm xúc, phải có cái “ hồn ”. Do vậy, giáo viên phải luôn luôn tạo cho các em có tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn nhiên, tấm lòng nhân hậu qua việc chiếm lĩnh kiến thức về ngôn ngữ, văn học, văn hoá, tự nhiên và xã hội ở cả 9 môn học.

         + Mặt khác, mỗi bài Tập làm văn đòi hỏi phải có tính chân thực: Chân thực khi kể chuyện, khi viết thư­, khi miêu tả… Muốn vậy, giáo viên phải uốn nắn học sinh tránh (lối nói và viết) giả tạo, già trư­ớc tuổi…( biểu hiện cụ thể là sao chép văn mẫu ) mà cần nhẹ nhàng chỉ cho học sinh những thiếu sót và h­ướng cho các em cách sửa, cách làm bài phù hợp với tâm lý lứa tuổi.

b.2. Một số vấn đề về phân môn Tiếng Việt lớp 4.

b.2.1 Cấu trúc chương trình.

Chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 4 gồm các nội dung chính có quan hệ mật thiết với nhau, đó là:

– Kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) thông qua các hình thức luyện tập : tập đọc, học thuộc lòng, chính tả.

– Tri thức Tiếng Việt gồm một số hiểu biết sơ giản về ngữ âm, chính tả, từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp văn bản.

b.2.  Một số lỗi trong dùng từ, đặt câu của học sinh lớp 4.

b2.1. Lỗi về cấu tạo ngữ pháp của câu.

Lỗi về cấu tạo ngữ pháp của câu là những lỗi thuộc về cấu trúc câu như thiếu hoặc thừa thành phần câu, phân định các thành phần câu chưa rõ ràng hoặc sắp xếp các thành phần câu chưa phù hợp.

             Câu thiếu thành phần nòng cốt.

           Thiếu thành phần chủ ngữ

          Câu thiếu chủ ngữ thường xuất hiện khi học sinh nhầm đối tượng hoặc đối tượng chỉ mới xuất hiện ở trong tư duy chưa được thực hiện mà ở lời (câu) với chủ ngữ. Trong tư duy của học sinh, đối tượng cần nói đến đã hiện rất rõ, các em chỉ quan tâm đến việc diễn tả những hoạt động, tính chất, trạng thái của đối tượng. Do vậy các em viết câu không có thành phần chủ ngữ và yên chí câu đã trọn nghĩa. Câu thiếu chủ ngữ có thể do học sinh lầm tưởng trạng ngữ là chủ ngữ.

   Ví dụ

           Thiếu chủ ngữ

           –  Hôm qua, được điểm mười môn toán.

             – Qua cánh đồng lúa chín vàng, càng thấy yêu quê hương.

Thiếu vị ngữ

             –  Những ngày nắng nóng, tôi và các bạn tôi cùng lứa tuổi trong xóm nhỏ.

       Thiếu chủ ngữ, vị ngữ

          – Bằng nỗ lực phấn đấu của bản thân, nhờ sự giúp đỡ của các bạn và thầy cô giáo.

b.2.2. Lỗi về diễn đạt trong câu.

Do năng lực tư duy còn yếu nên các em không diễn đạt được một cách chính xác ý định của mình, diễn đạt sai nội dung, ngữ nghĩa của câu thiếu logic, thiếu chặt chẽ.

Ví dụ:

          – Chiếc cặp của em có hình chữ nhật, đựng đồ dùng học tập cũng bằng hình chữ nhật, cặp có in hình siêu nhân, ngăn nhỏ đựng sách, cặp có quai xách.

          – Tuổi thơ của mình gắn bó với dòng sông, mình như một dòng sông, không phải ai cũng có một dòng sông.

b.3 .Giải pháp rèn kĩ năng dùng từ đặt câu trong phân môn luyện từ và câu cho học sinh lớp bốn.

b.3.1. Giúp học sinh mở rộng vốn từ.

           Để học sinh nâng cao chất lượng học phân môn luyện từ và câu, việc đầu tiên là rèn cho các em kỹ năng nghe, nói, hiểu và viết đúng chính tả. Trên cơ sở đó. Các em dễ dàng tiếp thu kiến thức về vốn từ, nghĩa của từ.

        Trong phần tìm hiểu nghĩa của từ, để học sinh tiếp thu và vận dụng tốt kiến thức chúng ta cần phối hợp nhiều cách tổ chức cho học sinh thảo luận, sưu tầm, luyện tập vào văn cảnh cụ thể để nắm được nghĩa của nhóm từ đó.

          Như đã nói ở trên việc mở rộng vốn từ cho học sinh tương đối khó bởi vì khả năng ngôn ngữ của các em còn hạn chế. Tuy nhiên, những hình thức tổ chức học tập phù hợp cũng sẽ giải quyết được vấn đề này. Một số chủ đề có phần khó hiểu đối với các em, giáo viên định hướng về mặt ngữ nghĩa của chủ đề để học sinh dễ chủ động tiếp thu và mở rộng về vốn từ theo từng bài tập đã xây dựng.

          Đa số các chủ đề mở rộng vốn từ trong chương trình có vốn từ Hán Việt khá nhiều làm cho học sinh gặp khó khăn, tuy vậy giáo viên nên chọn giải pháp thực hành từ các tình huống giao tiếp thực tế sẽ giúp các em dễ dàng hơn trong việc hiểu nghĩa của từ.

          Ví dụ:

          Chủ đề: Trung thực – Tự trọng (Tiếng Việt 4 tâp 1 trang 48), giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu nghĩa của từ trung thực trong một tình huống như:”Trong giờ kiểm tra, Lan không làm bài được, bạn bên cạnh đã làm xong và đưa cho Lan chép nhưng Lan nhất định không chép”. Sau khi học sinh đã nắm được nghĩa của từ, giáo viên cho học sinh tìm thêm các từ đồng nghĩa với từ trung thực. Với cách dạy như vậy, giáo viên không những giúp các em khắc sâu kiến thức mà còn giúp nâng cao khả năng mở rộng vốn từ của các em.

          Trong một bài học về mở rộng vốn từ thường có bài tập về viết một đoạn văn ngắn nói về nội dung về vốn từ được mở rộng, đây là dạng bài tập tổng hợp vừa củng cố vừa vận dụng vốn từ và thực hành viết câu, làm văn cho nên giáo viên có sự chuẩn bị trong việc uốn nắn các em về cách dùng từ, viết câu và diễn đạt nội dung.

b.3.2. Luyện kỹ năng viết câu cho học sinh.

          Trong thực tế, yêu cầu với học sinh lớp 4 là phải biết nói, biết diễn đạt thành câu và viết đoạn văn. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, những lỗi viết câu ở nhiều dạng khác nhau, vẫn còn xuất hiện nhiều. Và đó là nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong việc xây dựng đoạn văn, hạn chế trong kỹ năng viết văn của học sinh về lâu dài nếu không được chấn chỉnh kịp thời. Vì thế khi rèn kỹ năng viết câu, giáo viên chú ý hướng dẫn cho học sinh thực hiện được những yêu cầu cơ bản sau:

       –  Hướng dẫn học sinh viết đúng cấu tạo ngữ pháp

          Để học sinh viết câu đúng cấu tạo ngữ pháp, trước hết phải dạy cho học sinh nắm vững các kiến thức cơ bản về ngữ pháp trong câu. Nhận biết được thành phần nòng cốt câu. Cho học sinh nhận xét, phát hiện các thành phần còn thiếu trong câu. Từ đó, hướng dẫn học sinh đặt câu có đầy đủ thành phần chính.

          Ví dụ: Hằng năm, cứ vào ngày 22 – 12, thường tổ chức nói chuyện truyền thống .

       Cho học sinh nhận xét, xác định thành phần câu để học sinh tự phát hiện đây là câu thiếu thành phần chủ ngữ và cho học sinh chữa lại câu trên.

Hằng năm, cứ vào ngày 22 – 12, thường tổ chức nói chuyện truyền thống .

Trạng ngữ                                                                 Vị ngữ

          Sửa lại: Hằng năm, cứ vào ngày 22 – 12, các bác cựu chiến binh thường tổ chức nói chuyện truyền thống .

          Về mặt ngữ pháp, đa số học sinh biết viết câu theo yêu cầu bài tập. Thường thì các em hay mắc lỗi về dấu câu như: quên ghi dấu, sử dụng dấu chấm câu không theo mục đích nói của câu …Với những lỗi như vậy giáo viên sửa sai tại chỗ cho học sinh. Giáo viên nêu câu hỏi, gợi ý để học sinh tự phát hiện lỗi và hướng dẫn các em nhớ và rút kinh nghiệm. Giáo viên có thể ghi lại lưu ý với học sinh dưới bài tập sai đó để học sinh lưu ý.

          Trong hoạt động giao tiếp, giáo viên cần gợi mở cho học sinh tìm tòi, suy nghĩ …để có sáng tạo hơn thông qua hoạt động giao tiếp trong và ngoài lớp, tạo cho các em có thói quen quan sát, đánh giá, nhìn nhận một sự việc, một vấn đề nào đó và diễn đạt điều đó bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình. Tránh và hạn chế tối đa việc sử dụng từ không đúng lúc, không đúng chỗ, nói năng không trọn câu. Điều chỉnh kịp thời về lỗi dùng từ, đặt câu cho học sinh.

           Trong câu các từ phải được sắp xếp theo những quy tắc nhất định đã được sử dụng rộng rãi, được công nhận trong văn viết và nói. Những quy tắc ngữ pháp, ngữ nghĩa về trật tự các từ chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình đặt câu. Như chủ ngữ thường đứng ở đầu câu, vị ngữ thường đứng sau chủ ngữ. Chủ ngữ, vị ngữ gắn kết với nhau bằng quan hệ chủ ngữ. Trong mối quan hệ này, chủ ngữ nêu đối tượng thông báo, còn vị ngữ chứa đựng nội dung thông báo về đối tượng ấy. Chủ ngữ trả lời cho câu hỏi Ai, Cái gì,.. còn vị ngữ trả lời cho câu hỏi Làm gì, Như thế nào,…

          Biết tuân thủ, vận dụng quy tắc ngữ pháp, ngữ nghĩa thích hợp, sáng tạo, biết cách vận dụng các biện pháp tu từ nghệ thuật trong câu, ta sẽ viết câu đúng và hay.

     Ví dụ: Nói: “Bạn học rất khá.” chứ không nói “Bạn rất học khá” hay “Anh bao giờ đi?” Và “Anh đi bao giờ?” Đây là hai trường hợp câu hỏi khác nhau chỉ quá khứ, hành động đã xảy ra rồi. Như vậy, khi đặt câu cần phải sắp xếp trật tự từ một cách thích hợp, có dụng ý nghệ thuật, sáng nghĩa mới lôi cuốn được người đọc, người nghe.

       – Hướng dẫn học sinh diễn đạt logic và trọn ý khi viết câu.

          Giáo viên cần phải diễn đạt cho học sinh nói và viết sao cho mỗi câu đều hợp với quy luật suy nghĩ thông thường, làm sao mỗi ý trong mỗi câu ăn khớp với nhau về nghĩa.

Ví dụ:  Cháu sẽ viết thư này định gửi thăm bà nhưng bà nhận được không.

     Câu sai về logic vì  nói: “Sẽ ” Viết thư nhưng thật ra là “Đang” viết thư, sự việc đang hiện ra ở hiện tại nhưng “bà nhận được không?” lại là sự việc được hỏi ở quá khứ.

       Hướng dẫn học sinh sử dụng từ ngữ gợi cảm, gợi tả vào cách sử dụng các biện pháp tu từ khi viết câu:

          Câu do từ cấu tạo thành. Vì thế, khi nói hoặc viết một câu ta phải dùng từ cho chính xác. Tức là cách dùng từ có chọn lựa, để tìm ra từ đúng nhất, có giá trị nghệ thuật nhất phù hợp với ý cần diễn đạt.

Ví dụ 1 :  Các bạn tận tụy chăm sóc, giúp đỡ Kí viết ngày càng tiến bộ hơn.

Chữa lại là: Được các bạn giúp đỡ tận tình, với sự nỗ lực cố gắng của bản thân, chữ viết của Kí đã ngày càng tiến bộ hơn.

Ví dụ 2: Đặt câu thuộc chủ đề Nhân hậu – Đoàn kết (TV 4 Tập 1 trang 17) HS đã viết: Cậu bé với tấm lòng nhân hậu, hành động cụ thể, bày tỏ của mình đã xót thương cho thân phận của ông lão ăn xin.

 Chữa lại là: Với tấm lòng nhân hậu, câu bé đã bày tỏ sự xót thương và niềm cảm thông cho thân phận của ông lão ăn xin bằng hành động cụ thể của mình.

          Ngôn ngữ Tiếng Việt có số lượng từ rất phong phú, đa dạng về ngữ nghĩa. Khi hướng dẫn học sinh đặt câu giáo viên cần chú ý các hiện tượng từ đồng nghĩa (như mênh mông, bao la, thênh thang,…) từ trái nghĩa (như trung thực – giả dối, lạc quan – bi quan). Ngoài ra có từ đồng âm khác nghĩa, từ gần nghĩa, từ do vay mượn tiếng nước ngoài như từ gốc Hán (nghị lực, nỗ lực…)

Một số lưu ý khi hướng dẫn học sinh viết câu.

           Tiếng Việt rất phong phú về ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp. Khi viết câu nên biết khéo léo lựa chọn kiểu câu phù hợp với nội dung cần diễn đạt, sử dụng các từ ngữ chọn lọc, hình ảnh, vận dụng sáng tạo các biện pháp tu từ nghệ thuật thì câu văn sẽ tăng tính biểu cảm và đạt hiệu quả diễn đạt cao. Để đạt được điều đó, trước hết học sinh phải thành thạo những kỹ năng cơ bản. Trong quá trình hướng dẫn, cần lưu ý học sinh những điểm sau :

       –  Sử dụng dấu câu phù hợp với mục đích nói .

       – Sử dụng dấu câu đúng với chức năng ngữ pháp của các bộ phận trong câu.

       -Biết cách sử dụng những trợ từ, hư từ, những từ ngữ gợi cảm, gợi tả làm cho câu văn thêm sinh động.

          Có thể dùng nghĩa ngữ pháp(là, hay, bởi, tại, cùng, và,…) hay nghĩa từ trạng thái(ồ, à, ạ, ơi,…) để bổ sung ý nghĩa câu thêm sinh động.

Ví dụ: Tuy bạn Thảo học giỏi nên bạn không bao giờ kiêu ngạo .

Sửa lại: Tuy bạn Thảo học giỏi nhưng bạn không bao giờ kiêu ngạo .

Nói chung, khi trật tự từ chưa làm sáng tỏ các mối quan hệ ý nghĩa thì hư từ có tác dụng hỗ trợ. Còn khi quan hệ ý nghĩa đã rõ ràng, thì có thể không dùng hư từ.

Ví dụ: Ông ấy là người Đà Nẵng .

Có thể viết: Ông ấy người Đà Nẵng.

Trong câu, từ và cụm từ cần được sắp xếp theo một trật tự phục vụ cho việc biểu hiện các ý nghĩa, các chức năng ngữ pháp, các quan hệ ngữ pháp nhất định. Nếu thay đổi trật tự sắp xếp thì phương diện này có thể thay đổi, hoặc làm cho tổ hợp từ trở nên vô nghĩa, không thể chấp nhận được.

Ví dụ : Mình tặng cậu một quyển sách.

         Cậu tặng mình một quyển sách .

          Cậu thì  tặng mình một quyển sách .

          Mình một quyển sách tặng cậu. (Tổ hợp từ vô nghĩa )

       Trong các ngôn ngữ mà từ có biến đổi hình thái, thì trật tự trừ trong câu có tính tự do và linh hoạt hơn. Còn trong tiếng Việt có sự linh hoạt trong trật tự sắp xếp từ, chỉ có thể có những hoàn cảnh giao tiếp nhất định và với những điều kiện  nhất định mà thôi .

    – Viết câu chặt chẽ về ngữ pháp

 + Không để chủ ngữ xuất hiện ở vế phụ, nếu chủ ngữ ấy đã xuất hiện ở vế chính.

     Ví dụ 1: Chiếc cặp được em giữ gìn cẩn thận, chiếc cặp vẫn còn mới.

 Sửa lại: Được em giữ gìn cẩn thận, chiếc cặp vẫn còn mới.

          Ví dụ 2: Búp bê có mái tóc màu vàng, đôi mắt của búp bê màu xanh.

          Sửa lại: Búp bê có mái tóc vàng, đôi mắt màu xanh.

+ Không dùng từ nối “ và ” để nối cụm chủ vị diễn đạt ý phụ với cụm chủ vị diễn đạt ý chính.

          Ví dụ: Lan chăm chỉ học hành và Lan học giỏi.

          Sửa lại: Lan chăm chỉ học hành nên Lan học giỏi.

          Giáo viên tổ chức thực hành các bài tập cho học sinh trong phần luyện tập, giúp các em hiểu biết đầy đủ và chính xác các khái niệm về câu. Từ đó biết sử dụng trong hoạt động nói và viết một cách thành thạo.

 

4. KẾT QUẢ THỰC HIỆN.

     – Sau khi áp dụng các phương pháp đã nêu trên vào thực tế giảng dạy ở lớp 4B của trường TH ……….. nơi tôi đang công tác. Tôi thấy có sự chuyển biến tích cực ở chất lượng học sinh. Đa số học sinh đã nắm được các kiến thức của chương trình và kĩ năng dùng từ đặt câu trong môn Tiếng Việt ngày càng phong phú hơn, học sinh hứng khởi hơn khi học môn Tập Làm Văn.

   Kết quả so sánh Đầu năm học  và Cuối học kì I năm học …… sau khi áp dụng chuyên đề này trong giảng dạy.

 

……..

 KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ.

III.1. Kết luận :   Từ dữ liệu nghiên cứu,  tôi xin đưa ra một số kết luận sau:

Sử dụng các biện pháp rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu đúng, hay là một việc làm rất cần thiết, đáp ứng được yêu cầu của chương trình môn luyện từ và câu.

Là giáo viên tiểu học, trong nhiều năm qua. Qua thực tế dạy học, tôi thấy rằng cần phải chú trọng hơn nữa kĩ năng dùng từ, đặt câu cho học sinh. Đó là cơ sở giúp các em học tốt môn Tiếng Việt cho hiện nay và cả mai sau.

Để làm được điều đó người giáo viên Tiểu học cần sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, nhận biết được những lỗi mà học sinh thường mắc phải để có phương pháp uốn nắn kịp thời cho các em. Bên cạnh đó người giáo viên cần xây dựng được những bài tập tối ưu để khắc phục được những lỗi sai lầm cho học sinh giúp học sinh khắc sâu được những lỗi đó không còn mắc phải lần sau.Hơn nữa giáo viên phải làm cho học sinh thấy rõ Tiếng Việt rất lý thú và bổ ích.  Phân môn Luyện từ và câu giúp học sinh hiểu được sự phong phú cái hay, cái đẹp của Tiếng Việt, nâng cao cảm thụ thẫm mĩ. Với vai trò quan trọng như vậy, bản thân tôi trong quá trình làm đề tài cũng có nhiều trăn trở, tìm tòi để làm sao tìm được phương pháp tối ưu nhất để  nâng cao hiệu quả Rèn luyện kĩ năng dùng từ đặt câu cho học sinh .Đây còn là vấn đề bức thiết để đáp ứng nhu cầu học tập cho bản thân học sinh ngay từ bậc học đầu tiên các em mới bước vào ngưỡng cữa văn hóa giáo dục, phải trang bị cho các em vốn từ phong phú, chính xác để giúp các em đi vào cuộc sống, tạo cho các em thói quen biết sử dụng Tiếng Việt hay hơn và chính xác hơn.

II.2. Kiến nghị :

  1. Đối với Nhà trường.

          – Tổ chức các hình thức giảng dạy khác nhau: làm việc cá nhân, trao đổi nhóm, đàm thoại gây hứng thú cho học sinh tránh nhàm chán đơn điệu.

          – Góp ý, dự giờ dạy chuyên đề cho toàn trường góp ý.

          – Phối hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp để tích luỹ vốn hiểu biết, vốn từ ngữ cho học sinh

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Lê A, Thành Thị Yên Mĩ, Lê Phương Nga, Nguyễn Trí, Cao Đức Tiến, Phương pháp dạy học Tiếng Việt tập 1, NXBGD, 1997.
  2. Lê A, Chữ viết và dạy chữ viết ở trường tiểu học , NXBĐHSP, 2003.
  3. Lê A, Đỗ Xuân Thảo, Trịnh Đức Minh, Dạy tập viết ở trường tiểu học, NXBGD, 1998.
  4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình tiểu học – NXBGD, 2002.
  5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình tiểu học – NXBGD, 2006.
  6. Bộ Giáo dục & Đào tạo, Tài liệu tập huấn giảng viên cốt cán cấp tỉnh, Thành phố triển khai CT, SGK lớp 1,2,3,4,5 môn Tiếng Việt.
  7. Bộ Giáo dục & Đào tạo,  SGK lớp 1,2,3,4,5 môn Tiếng Việt.

 

BẤM VÀO ĐÂY ĐỂ TẢI FILE WORD

Copyright 2019 © Kinh nghiệm dạy học | Thiết kế bởi Web Bách Thắng