Một số kinh nghiệm dạy tập làm văn cho học sinh lớp 2.
- Lý do chọn biện pháp:
Môn tập làm văn có vai trò hết sức quan trọng đó là giúp học sinh sản sinh ngôn ngữ nói và viết, thông qua đó rèn luyện cho học sinh kĩ năng tích lũy và sử dụng ngôn ngữ để giáo viếp và học tập tốt các môn học khác. Chính vì vậy dạy học môn Tập làm văn rất khó, nhất là các em lớp 2. Vì đối tượng nàycác em còn rất nghèo nàn ngôn ngữ diễn đạt, nhất là các em học sinh dân tộc thiểu số. Do đó để thực hiện tốt mục tiêu nhiệm vụ của mình trong quá trình dạy học đối với môn tập làm văn nói riêng của người giáo viên lớp 2 ngoài những nội dung chương trình yêu cầu thì cần phải có những biện pháp khác để khắc phục cho học sinh những yếu kém khi học môn học này.
Đối với trường tiểu học Krông Năng là một đơn vị có số học sinh dân tộc chiếm tỉ lệ rất nhiều, tuy Ban giám hiệu nhà trường rất quan tâm đến chất lượng học tập của học sinh đồng thời có đội ngũ giáo viên nhiệt tình và có trình độ chuyên môn vững vàng. Tuy nhiên vẫn còn một số em học sinh dân tộc chưa học tốt môn Tập làm văn. Với vai trò là giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi luôn gần gũi các em để tìm hiểu khả năng cảm thụ nội dung bài học và tìm ra những biện pháp giúp đỡ các em học tập tốt hơn. Nhưng việc tìm biện pháp giúp đỡ cho các em không đơn thuần là chỉ giúp mà cần có một nghiên cứu cụ thể chính xác đối với từng đối tượng học sinh sau đó mới nghiên cứu các phương pháp và các biện pháp giúp đỡ.
Một trong những vấn đề nêu trên cũng chính là nội dung đề tài mà tôi đã nghiên cứu từ lâu và xây dựng kế hoạch thực hiện cụ thể đó là: “một số kinh nghiệm dạy tập làm văn cho học sinh lớp 2”
- Nội dung thực hiện biện pháp:
Các trò chơi vận dụng:
Các trò chơi sau có thể cho HS chơi trong giờ tự học hoặc giờ ra chơi, giờ sinh hoạt lớp hay trong phần củng cố của mỗi giờ học Tập làm văn tương ứng. Qua các trò chơi này HS được tăng cường rèn luyện các kiến thức vừa được học, từ đó sẽ nhớ bài và vận dụng vào trong giao tiếp đời sống hằng ngày.
Đóng vai chúc mừng nhau:
– Luyện tập cách nói lịch sự khi chúc mừng người khác và đáp lại lời người khác chúc mừng mình.
– Rèn thói quen lịch sự trong giao tiếp và sinh hoạt hằng ngày; tập chúc mừng bằng những lời khác nhau.
– 2 HS giúp GV làm việc.
– Sau mỗi tình huống, GV cho HS nhận xét và bình chọn người nói đúng hay sai. Cuối cùng bình chọn nhóm chiến thắng.
Đóng vai khen ngợi nhau:
– Luyện tập cách nói lịch sự khi khen ngợi người khác và đáp lại lời người khác khen mình.
– Rèn thói quen lịch sự trong giao tiếp và sinh hoạt hằng ngày; tập khen ngợi bằng những lời khác nhau.
+ Một số bạn khen một bạn gái mặc bộ váy đẹp.
+ Một số bạn khen một bạn trai bơi giái.
+ Một bạn gái vẽ tranh con gà trống đẹp. Các bạn khác xem tranh và khen.
– 5 HS mặc quần áo đẹp.
– 5 mũ bơi để HS giả làm người đang bơi.
– 5 bức tranh (ảnh ) con vật trông đẹp mắt.
– Chia nhóm: 6 HS / 1 nhóm: 2 HS đóng vai 1 tình huống.
– Sau mỗi tình huống, GV cho HS nhận xét và bình chọn nói đúng hay sai. Cuối cùng bình chọn nhóm chiến thắng.
Đóng vai an ủi nhau:
– Rèn thói quen lịch sự trong giao tiếp và sinh hoạt hằng ngày; tập nói lời an ủi bằng nhiều cách khác nhau.
+ Một bạn gái mặc bộ váy đẹp và bị giây mực ra váy. Một bạn khác đang an ủi bạn có váy đẹp bị giây bẩn.
+ Bạn trai lỡ tay làm rách một trang sách của quyển truyện. Bạn khác đến bên cạnh nói lời an ủi, động viên.
+ Một bạn bị điểm 3 môn toán đang buồn. Các bạn khác đến an ủi động viên.
– 5 HS mặc quần áo có vết bẩn được tạo ra bằng phấn màu.
– 5 bài kiểm tra toán có diểm 3.
– Chia nhóm: 6 HS / 1nhóm: 2 HS đóng vai thực hiện 1 tình huống.
Viết bản tự thuật ngắn:
Mục đích của bài tập là giúp HS biết cách tự giới thiệu về mình với thầy cô, bạn bè hoặc người xung quanh.
Tự thuật là những điều mình tự kể về mình nhằm để cho người khác nắm được những thông tin về mình.
– Hái người thân trong gia đình (ông, bà, bố, mẹ, anh, chị,em) để nắm được những điều mình chưa rõ (như ngày sinh, nơi sinh, quê quán, nơi ở hiện nay ).
– Xem lại bài tập đọc “Tự thuật ” trong SGK, tập 1, trang 7 để học tập cách viết và trình bày sạch đẹp.
Lập danh sách học sinh:
– Xác định yêu cầu: Lập danh sách một nhóm từ 3 đến 5 bạn trong tổ học tập của em (theo mẫu ở SGK )
– Xem lại bài tập đọc: Danh sách HS tổ 1, lớp 2A trong SGK, tập 1, trang 25 để học tập cách lập danh sách học sinh (Chú ý: Tên các bạn được xếp theo thứ tự bảng chữ cái. )
– Ghi tên các bạn trong tổ học tập: họ tên, ngày sinh, nơi ở (chọn 3 đến 5 bạn ) để chuẩn bị lập danh sách theo mẫu đã cho, xếp tên các bạn theo đúng thứ tự bảng chữ cái đã học (đánh số thứ tự tên các bạn theo thứ tự bảng chữ cái )
– Kẻ bảng danh sách theo mẫu trong SGK; chú ý ước lượng khoảng cách ở từng cột để ghi cho đủ chữ. (cột Nơi ở cần rộng nhất, sau đó cột Họ và tên cần rộng kém cột Nơi ở một chút. Còn cột Số thứ tự và Nam, nữ là hẹp nhất. )
– Lập danh sách theo từng cột trong bảng (xếp tên theo đúng thứ tự bảng chữ cái ); có thể hái bạn về những điều em chưa rõ. Ví dụ: Ngày sinh; Nơi ở.
Chú ý: Điền vào từng cột theo hàng ngang. Chữ và số phải viết cân đối trong từng ô cho đẹp.
Ví dụ: Lập danh sách một nhóm từ 3 đến 5 bạn trong tổ học tập của em theo mẫu sau:
STT | Họ và tên | Nam,nữ | Ngày sinh | Nơi ở |
Tra mục lục sách:
– Xem phần mục lục ở cuối SGK, tập 1, tuần 6 (Chủ điểm Trường học ) để biết: Tuần 6 có mấy bài tập đọc? Đó là những bài tập đọc nào? Trang bao nhiêu? (Có thể ghi tên các bài tập đọc và số trang vào vở nháp )
– Dựa vào bài tập đọc Mục lục sách đã học trong tuần 5, kẻ bảng mục lục theo các cột: Số thứ tự; Tên bài Tập đọc; Trang.
– Đọc toàn bộ mục lục rồi xác định:
+ Cả cuốn truyện gồm bao nhiêu truyện.
+ Đâu là kí hiệu đánh dấu STT từng truyện.
+ Đâu là tên truyện.
+ Đâu là tên tác giả.
+ Đâu là số trang.
– Một tập truyện bao gồm nhiều truyện (hoặc một truyện ). Có khi mỗi truyện do một tác giả viết. Có khi cả tập truyện chỉ gồm một , hai tác giả. Nếu là truyện do một, hai tác giả viết thì ghi tên tập truyện, tên tác giả trước, ở phần mục lục chỉ cần ghi tên truyện và số trang.
– Căn cứ vào mục lục của cuốn sách cụ thể mà em đã đọc để trình bày các cột (1 ) STT; (2) Tác giả; (3 ) Tác phẩm (hoặc tên truyện ) ; (4 ) Trang (cột 2 và cột 3 có thể đổi chỗ cho nhau. )
Ví dụ: Tìm đọc mục lục tuần 19. Ghi lại tên truyện và số trang theo thứ tự trong mục lục.
STT | Tác phẩm | Trang |
1
|
Chuyện bốn mùa | 6
|
Lập thời gian biểu:
Như chúng ta thấy từ 6 tuổi, trẻ được đến trường là đã bắt đầu một cuộc sống mới. Mặc dù các em vẫn được chơi, được nghịch, được cha mẹ, thầy cô và xã hội nâng niu, nhưng các em đã có những công việc cần làm, đã phải biết sử dụng thời gian hợp lý. ở lớp, các em được tổ chức hoạt động theo phương pháp tích cực để dần dần trở thành người lao động biết làm chủ bản thân, gia đình và xã hội. Lối học thụ động không thích hợp với nhà trường mới. Nhưng chỉ chủ động trong tiếp thu bài vở trên lớp thôi thì chưa đủ. Ngoài việc học bài trên lớp, HS còn cần được dạy để chủ động ngay từ chuyện sắp xếp thời gian, công việc hằng ngày. Dạy HS lập thời gian biểu là một biện pháp hình thành ở các em thái độ tích cực, chủ động, tính kế hoạch và khả năng sắp xếp cuộc sống riêng.
Thời gian biểu là lịch sinh hoạt, làm việc, nghỉ ngơi trong một ngày, gồm cả sáng, trưa, chiều, tối. Thời gian biểu rất cần thiết vì nó giúp chúng ta làm việc tuần tự, hợp lý và không bá sót công việc. Đề bài yêu cầu HS lập thời gian biểu buổi tối.
– Xem lại bài tập đọc Thời gian biểu (SGK, tập 1, trang 132 ) để biết cách trình bày; nhớ lại thời gian và công việc buổi tối của em để lập thời gian biểu (từ khoảng 18 giờ 30 đến mấy giờ? Em làm gì? thời gian tiếp theo, em làm tiếp vệc gì?… cho đến khi đi ngủ )
Ví dụ: Thời gian biểu buổi tối.
Họ và tên: Huỳnh Hữu Kháng
Lớp: 2B, Trường Tiểu học KRong Năng
– 18 giờ 30 – 19 giờ : ăn cơm
– 19giờ – 19 giờ 30 : Nghỉ ngơi, xem ti vi
– 19 giờ 30 – 20 giờ 30 : Học bài
– 20 giờ 30 – 21 giờ : Vệ sinh cá nhân
– 21 giờ : Đi ngủ
Kiểu bài quan sát tranh, trả lời cõu hái:
– Để định hướng cho các em quan sát cũng như nêu nhận xét của mình, bài Tập làm văn có một số câu hái gợi ý. Vì vậy, các em sẽ lần lượt trả lời từng câu hái này. Đầu tiên, các em gắng trả lời cho đúng điều câu hái yêu cầu. Sau đó, các em nên sửa laị lời bằng cách chọn lọc các từ ngữ, sử dụng các từ chỉ hình ảnh, màu sắc… để câu trả lời ngày càng hay hơn, có ý riêng và cách diễn đạt riêng của mình hơn. Các em nhớ câu trả lời hay không phải là câu trả lời chỉ nêu được chính xác đặc điểm của đối tượng được quan sát mà còn thể hiện được thái độ, tình yêu của các em đối với sự vật.
Trong giờ Tập làm văn, HS được học kể sáng tạo qua tranh vẽ. Việc kể chuyện theo tranh vừa kích thích trí tưởng tượng vừa giúp các em tập đặt câu cho gọn gàng, sáng sủa để diễn đạt được ý mình muốn nói. Việc kể chuyện không theo bài tập đọc có trước này là kiểu kể chuyện sáng tạo. ở tuần 1, các bức tranh liên hoàn khuyên bạn không hái hoa ở công viên (trang 12 ), dắt cụ già qua đường (trang 150 ) giúp HS nhận thức và xử lý được nhiều tình huống, đồng thời rèn khả năng sáng tạo. Nhưng các bài khuyên bạn không vẽ bậy lên tường (trang 47 ), Bút của cô giáo (trang 62 ) lại đơn giản hơn vì có lời thoại.
Hoạt động chính của HS khi học kiểu bài này:
– QST có định hướng: Hướng dẫn HS thực hiện các thao tác QST.
– Diễn đạt những điều quan sát được bằng ngôn ngữ có tính tạo hình: Hướng dẫn HS tìm từ ngữ để thể hiện một cách có hình ảnh những điều đã quan sát được.
– Diễn đạt thành lời văn có hình ảnh về những điều quan sát đã được tổ chức theo một lôgíc: Hướng dẫn HS nói thành câu văn kể (tả ) những điều đã quan sát.
Cách làm bài văn QST -TLCH:
– HS Quan sát kĩ bức tranh (toàn cảnh và từng chi tiết ). Dựa vào vốn hiểu biết thực tế, HS tưởng tượng các màu sắc, hình thù, âm thanh, mùi vị…để khi viết câu trả lời nêu được một ý trọn vẹn, gắn bó với nhau và câu văn sinh động. GV hướng dẫn HS nhìn tranh, đối chiếu tranh với nội dung đã chuẩn bị để bổ sung từ ngữ diễn đạt chi tiết mới.
– Đọc kĩ từng câu hái, nắm chắc yêu cầu từ đó suy nghĩ các hình ảnh đã quan sát được và trả lời sao cho gọn, chính xác, hay.
– Sắp xếp các ý theo trình tự, nối với nhau cho liền mạch, bài văn hoàn chỉnh.
Kể về người:
Kể về người thân trong gia đình:
– Xác định yêu cầu: Kể về ông, bà (hoặc một người thân ) của em.
– Để trả lời câu hái: Ông (bà, bố, mẹ.. ) của em yêu quý, chăm sóc em như thế nào? em cần nhớ lại những lời nói, cử chỉ, hành động… cho thấy tình cảm yêu quý, thái độ quan tâm, chăm sóc của người thân đối với em. (như:đưa đón em đi học, đi chơi công viên, kể chuyện cho em nghe, nhắc em học bài…. )
Em kể về người thân của mình theo các câu hái gợi ý trong SGK.
Theo các câu hái gợi ý sau:
+ Người thân là ai?
+ Trạc bao nhiêu tuổi?
+ Thường làm gì ở nhà?
+ Yêu thích gì nhất?
Kể về gia đình:
Hướng dẫn HS làm bài:
Dựa vào các câu hái gợi ý để kể lại vài nét về gia đình em.Chú ý: Cần nói thành từng câu thật rõ ràng; khi kể cho bạn nghe, em có thể xưng tôi hoặc tớ, mình…
Tả người thông qua tranh ảnh:
Ví dụ: Quan sát ảnh Bác Hồ được treo trong lớp học, trả lời các câu hái nêu ở SGK.
* Hướng dẫn HS chuẩn bị:
– Xác định yêu cầu: Quan sát ảnh Bác Hồ được treo trong lớp học, trả lời các câu hái nêu ở SGK.
– Dựa vào ảnh Bác Hồ treo ở lớp học, em hãy quan sát, suy nghĩ và tìm ý (từ ngữ ) để diễn đạt.
+ Xác định vị trí nơi treo ảnh Bác Hồ (Ví dụ: phía trên bảng lớp; phía trên bảng lớp và khẩu hiệu; phía trên bảng lớp và dòng chữ: “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ vĩ đại ”; chính giữa bức tường lớn của lớp em… )
+ Gương mặt Bác Hồ trong ảnh: Râu tóc Bác như thế nào? (Ví dụ: râu (chòm râu ) hơi dài, mái tóc bạc phơ… ) Vầng trán Bác ra sao? (Ví dụ: cao cao, rộng… ) Đôi mắt Bác trông thế nào? (Ví dụ: sáng ngời, hiền từ, thông minh, như đang mỉm cười với chúng em… )
+ Nhìn ảnh Bác Hồ trong lớp học, em muốn hứa với Bác điều gì? (Ví dụ: chăm học, chăm làm,thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy, đoàn kết, thật thà… )
Kể về con vật:
– Xác định yêu cầu: Kể về một con vật nuôi trong nhà mà em biết.
Chú ý: Em có thể kể về một trong những con vật được vẽ gợi ý trong SGK, tập một, trang 137 (bò, chó, gà, ngựa, trâu, mèo ) hoặc một con vật nuôi nào khác mà em biết; chỉ cần kể ngắn gọn vài nét tiêu biểu về con vật (khoảng 4 – 5 câu)
– Chọn con vật nuôi trong nhà mà em biết để kể lại theo những câu hái gợi ý sau:
+ Con vật nuôi trong nhà mà em biết là con gì?
+ Con vật đó có đặc điểm gì nổi bật (về hình dáng, hoạt động… )
+ Theo em, con vật đó được nuôi để làm gì? Thái độ của em đối với con vật nuôi đó ra sao?
Tả về loài chim:
– Chọn một loài chim mà em thích để tả dựa theo những câu hái gợi ý sau:
+ Đó là con chim gì?
+ Hình dáng nó có gì nổi bật?
Bộ lông: mềm, mượt, màu sắc.
Đôi cánh: to, nhá.
Đầu: nhá, như quả chanh.
Má: dài, nhọn, khoằm, màu sắc.
Chân: bé xíu, như hai que tăm, mảnh khảnh.
+ Hoạt động chủ yếu của nó ra sao?
Hót: véo von, du dương, trầm bổng, nói tiếng người.
Bay: nhanh vun vút, như tên bay.
Nhảy: lích chích, …
Kiếm mồi: Bắt sâu, cá. kiến…
+ ích lợi:làm đẹp cuộc sống, có ích cho cây cối….
+ Tình cảm của em với con chim: yêu quý, gắn bó; chăm sóc chu đáo, cẩn thận, bảo vệ.
Kể về cây cối:
Kể về một loài cây em thích.
– Xác định yêu cầu: Dựa vào gợi ý (SGK ), viết một đoạn văn ngắn (khoảng 4 – 5 câu ) nói về một loài cây mà em thích.
– Trước hết, cần lựa chọn một loài cây mà em thích:
+ Đó là cây gì? trồng ở đâu?
+ Hình dáng của cây thế nào? (dáng đứng, tán lá, hoa, quả… )
+ ích lợi của cây (tìm từ ngữ để diễn tả cho đúng ý ): làm đẹp cuộc sống, để trang trí, để ăn, lấy bóng mát, lấy gỗ.
– Có thể xem lại bài thực hành luyện tập về Tập làm van tuần 28 (bài tập 2, 3 ) để nắm được cách tả ngắn về cây cối.
– Viết đoạn văn ngắn (4, 5 câu ) về một loài cây mà em thích.
4: Kết quả đạt được qua khảo nghiệm:
Sau khi áp dụng đề tài cho lớp 2B, kết quả thu được cuối học kì I như sau:
– Kết quả học môn tập làm văn:
Tt | TSHS học tốt môn tập làm văn | TSHS học môn tập làm văn đạt mức độ khá | TSHS học chưa tốt môn tập làm văn |
4. Kết luận:
Đứng trước vai trò, vị trí, tầm quan trọng của việc dạy Tập làm văn cho HS Tiểu học nói chung và đối với HS lớp hai nói riêng, tôi thấy việc hướng dẫn cho các em nắm được phương pháp học phân môn Tập làm văn là hết sức cần thiết.
Học văn không chỉ là học những tri thức về ngôn ngữ, về lý luận… mà quan trọng hơn là bồi dưỡng và phát triển năng lực văn ở mỗi người. Năng lực văn này bao gồm năng lực tư duy và năng lực cảm xúc; năng lực thể hiện, tức khả năng nói, viết, diễn đạt cảm nghĩ của mình trong một văn bản hay trong một lời nhắn.
Học văn vừa là học, vừa là sống. Trong cái sống đó, tri thức, điều học được là cần, nhưng chưa phải là cái quan trọng nhất.
Dạy Tập làm văn mà chỉ thiên về cung cấp những kiến thức thì phân môn Tập làm văn sẽ trở nên nghèo nàn và buồn tẻ biết bao nhiêu.
Một trong những mục đích quan trọng của việc dạy Tiếng Việt cho HS trong nhà trường là giúp cho các em hiểu và sử dụng được Tiếng Việt , một phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của chúng ta. Hơn nữa, việc dạy học Tiếng Việt không phải chỉ đơn thuần nhằm cung cấp cho HS một số những khái niệm hay quy tắc ngôn ngữ, mà mục đích cuối cùng cần phải đạt đến lại là việc giúp các em có được những kĩ năng, kĩ xảo trong việc sử dụng ngôn ngữ. HS không thể chỉ biết những lý thuyết về hệ thống ngữ pháp Tiếng Việt, biết một khối lượng lớn các từ ngữ Tiếng Việt, mà lại không có khả năng sử dụng những hiểu biết ấy vào giao tiếp. Dạy Tiếng Việt cho các em, đặc biệt ở các lớp đầu bậc Tiểu học, không phải chủ yếu là dạy “kĩ thuật ” ngôn ngữ mà là dạy “kĩ thuật ” giao tiếp. Việc dạy tiếng gắn liền với hoạt động giao tiếp là con đường ngắn nhất, có hiệu quả nhất giúp HS nắm được các quy tắc sử dụng ấy.Vì thế, có thể nói dạy tiếng chính là việc dạy cho các em cách tổ chức giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Như chúng ta thấy quy trình “Tập làm văn ” ở lớp hai chỉ có tập tả và tập kể chút ít, ngoài ra chỉ là những bài tập nói và viết những lời đối thoại trong một số tình huống giao tiếp, những bài viết văn bản thường dùng, đơn giản và gần gũi với các em.
Mỗi bài “Tập làm văn ” là một dịp cho các em có thêm kiến thức và kĩ năng chủ động tham dự vào cuộc sống văn hoá thường ngày. Vì vậy, GV cần hết sức linh hoạt để làm cho tiết “Tập làm văn ” trở thành một tiết học hứng thú và bổ ích. Điều quan trọng là cần căn cứ vào nội dung, tính chất của từng bài, căn cứ vào trình độ HS và năng lực, sở trường của GV; căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng trường, từng lớp mà lựa chọn, sử dụng kết hợp các phương pháp và hình thức dạy học một cách hợp lý, đúng mức.