Tiến hành phân loại học sinh.
Ngay từ buổi đầu tiên lên lớp giáo viên cần khảo sát kiến thức học sinh sau đó vạch ra kế hoạch bồi dưỡng giúp học sinh nắm vững những kiến thức cơ bản. Sau đó giáo viên kịp thời phát hiện phân loại học sinh thành từng nhóm như:
* Nhóm thứ nhất: – Các em yêu thích văn học, có hứng thú với nghệ thuật ngôn từ, yêu thích thơ ca, ham mê đọc sách báo, thích nghe kể chuyện, có những em ước mơ sau này thành nhà văn hoặc trở thành cô giáo dạy Văn – Tiếng Việt… Phần lớn các em không thờ ơ trước cái hay, cái hấp dẫn của ngôn từ, luôn ghi nhớ và sưu tầm những câu văn, đoạn văn hay.
Đối với nhóm học sinh này các em có sự tư duy lô ríc và thống nhất như: tư duy phân loại, phân tích, trừu tượng hóa, khái quát hóa. .
Có năng lực quan sát, nhận xét ngôn từ của mọi người và của chính mình.
Có em còn biết quan sát hiện thực, biết liên tưởng, giàu cảm xúc.
Ví dụ: Trong bài “ Tre Việt Nam” của nhà thơ Nguyễn Duy có đoạn:
“ Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre chẳng ở riêng
Lũy thành từ đó mà nên hỡi người.”
Các em đã hiểu được phẩm chất tốt đẹp của tre đó là sự đùm bọc, đoàn kết lại vừa nói lên được phẩm chất, những truyền thống tốt đẹp cao quý của con người, dân tộc Việt Nam. Từ đó ta thấy các em có khả năng tư duy nghệ thuật là có khả năng tiếp nhận vẻ đẹp của ngôn từ, cách nói của văn chương, biết phát hiện nghệ thuật ngôn từ trong việc diễn đạt nội dung. .
Với khả năng sử dụng từ: Những học sinh học tốt Tiếng Việt thường có khả năng sử dụng từ khá phong phú, giàu hình ảnh nhiều tính từ, từ láy, từ tượng hình, từ tượng thanh, sử dụng những câu có nhiều thành phần phụ như định ngữ, bỗ ngữ, câu văn trôi chảy, rõ ý, bộc lộ được tình cảm của mình với hiện thực được nói tới. Sau đây ta thử đọc đoạn viết của 2 em HS xem có gì khác:
HS1: “Trời đã về chiều. Nắng trên sân trường đã tắt. Chỉ còn gió lao xao trong những tán lá bàng, lá phượng và thổi dọc hành lang vắng vẻ. Chúng em đang học tiết cuối cùng của buổi học hôm nay.Bỗng một hồi trống vang lên thế là buổi học đã kết thúc”.
HS2: “Tiết học thứ năm đã hết một hồi trống vang lên buổi học đã kết thúc”.
Đoạn văn của em học sinh ở nhóm thứ nhất nó có tác động không phải chỉ vào lí trí mà cả tình cảm của người đọc. .
Đối với nhóm đối tượng học sinh này giáo viên nên tập trung tham gia đội tuyển bồi dưỡng học sinh giỏi trường.. Trên thực tế có thể nói việc bồi dưỡng học sinh có khả năng học tiếng việt tốt càng bắt đầu sớm bao nhiêu càng có hiệu quả bấy nhiêu. .
* Nhóm thứ hai : các em học sinh học ở mức độ trung bình các em đọc được và việc sử dụng từ ngữ nhưng chưa hay trong từng ngữ cảnh, trong giao tiếp cũng như trong quá trình viết văn các em còn chưa thật sự tự tin và sử dụng câu từ hợp lí.
* Nhóm thứ ba: các em có vốn từ vựng rất ít đọc cũng còn yếu việc sử dụng từ ngữ không được hay đôi lúc còn sai trong từng ngữ cảnh, trong giao tiếp cũng như trong quá trình viết văn các em viết câu văn còn lộn xộn dụng câu từ hợp lí.
* Sau khi tiến hành phân loại học sinh tôi tiến hành các biện pháp sau.
b.1/ Tạo hứng thú học tâp cho học sinh:
Hứng thú có vai trò quan trọng trong học tập và làm việc. Không có việc gì người ta không làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. Vì vậy M.goocki có nói: “ Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc”. Vì vậy bồi dưỡng hứng thú học tập rất quan trọng. Không có con đường nào khác là giúp các em thấy được vẻ đẹp và khả năng kì diệu của Tiếng Việt – Văn học, từng giờ, từng phút trong giờ Tiếng Việt, người giáo viên đều hướng đến để hình thành, duy trì hứng thú cho học sinh.
Ví dụ cách giới thiệu bài: Chúng ta đã được học rất nhiều bài nói về hình ảnh người mẹ như:
“Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng”.
“Hôm nay trời nắng như nung
Mẹ em đi cấy phơi lưng cả ngày”…
Bài học hôm nay chúng ta học cũng nói về “ Mẹ” của nhà thơ Bằng Việt, các em hãy cùng cô tìm hiểu xem“Mẹ” trong bài thơ này có gì khác với những bài về mẹ mà các em đã học. Những bài về từ ngữ sinh động câu văn trôi chảy cũng gây hứng thú cho HS.
Cho trẻ tiếp xúc trực tiếp càng nhiều càng tốt với những tác phẩm văn chương, những mẫu hình sử dụng ngôn ngữ mẫu mực vì “ không làm thân với văn thơ thì không nghe thấy được tiếng lòng chân thật của nó”( Lê Trí viễn). .
Ngoài ra GV giúp các em tiếp thu văn chương tốt bằng cách kể cho các em nghe về cuộc đời riêng của các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, tổ chức nói chuyện thơ văn, ngoại khóa …hay giáo viên thường xuyên thiết kế các trò chơi để các em được sử dụng tiếng nhiều hơn trong cách trình bày diễn đạt hợp lí trong trò chơi đó
b.2/Tăng cường khả năng quan sát và trải nghiệm:
Ngày nay theo xu hướng chung đa số giáo viên lên lớp dạy tập làm văn cho học sinh thường thiên về dạy lý thuyết nhiều .Mặc dù các em nắm vững bố cục nhưng vốn từ khô khan, thiếu hình ảnh thì bài văn không hay. Điều quan trọng là cung cấp các chất liệu sống – cái tạo nên nội dung bài viết.
Khi một em học sinh ngồi trước một đề văn 15-20 phút vẫn chưa viết được, giáo viên thường cho rằng các em không nắm được lí thuyết thể văn mà không hiểu rằng nguyên nhân đầu tiên làm các em không có hứng thú viết là các em không tạo được một quan hệ thân thiết giữa mình với đề bài – đối tượng kể hoặc tả, nghĩa là các em không có nội dung, không có gì để nói, để viết. Nguyên nhân đó là việc thiếu hụt về vốn sống, vốn cảm xúc của học sinh.
Từ đó, tôi rút ra phương pháp dạy và bồi dưỡng vốn sống cho các em trước hết đó là vốn sống trực tiếp: cho các em quan sát, trải nghiệm những gì các em sẽ phải viết.
Ví dụ hướng dẫn các em quan sát con đường trước khi yêu cầu các em tả nó. Tất nhiên giáo viên cần làm cho vốn sống thực này không cản trở trí tưởng tượng của các em. Nhưng trí tưởng tượng dù có bay bổng đến mấy vẫn phải có cơ sở bắt nguồn từ thực tiễn. Người giáo viên đóng vai trò dẫn dắt, gợi mở, tạo nguồn cảm hứng khơi dậy suy nghĩ trong các em như khi quan sát một cảnh vật, một bông hoa đang nở, một đàn trâu đang gặm cỏ, ông mặt trời thức dậy…
Giáo viên tạo cho học sinh sự hứng thú và thói quen đọc sách . Đọc sách, các em không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp khơi dậy trí tuệ, bồi dưỡng tâm hồn.
* Là giáo viên dạy học tại điểm trường lẻ xa trường chính không có thư viện tại điểm trường tôi thường xuyên mượn các loại sách báo mới khuyến khích các em đọc thêm vào đầu giờ sinh hoạt hoặc các giờ ra chơi nhằm giúp các em vừa có hứng thú đọc sách vừa nâng cao vốn từ cũng như cách sử dụng câu ngày một hay hơn phù hợp hơn.
b.3/ Tăng cường kiến thức kĩ năng Tiếng Việt:
b.3.1 Tăng cường vốn kiến thức- kĩ năng từ ngữ trong dạy luyện từ và câu:
* Tiến hành phân loại nhận diện từ theo cấu tạo:
Dựa vào số lượng tiếng của từ chia ra từ đơn và từ đa âm.
Phân loại nhóm từ đa âm phải dựa vào mối quan hệ giữa các tiếng trong từ: Nếu có mối quan hệ về mặt ngữ nghĩa là từ ghép. Nếu có mối quan hệ về âm là từ láy.
Lưu ý ở tiểu học, những từ thuần Việt như tắc kè, bồ hóng, bồ kết… hay những từ vay mượn: mì chính, xà phòng, mít tinh…là những từ mà cả 2 tiếng đều không có quan hệ cả về nghĩa lẫn về âm, vì vậy những từ này không được dùng làm ngữ liệu để ra bài tập. Nếu HS chủ động đưa ra để hỏi thì giáo viên trả lời đó là một từ ghép đặc biệt: từ ghép ngẫu hợp
các từ 2 tiếng có sự giống nhau nào đó về âm như chôm chôm, thằn lằn, ba ba, ngày ngày, gật gật…đều được xem là từ láy.
Các kiểu từ như ồn ào, ầm ĩ, ọc ạch, ỏn ẻn… đều được xem là từ láy và được giải thích nó giống nhau ở chỗ cùng vắng khuyết phụ âm đầu.
Những từ như cong queo, cuống quýt,… cũng là từ láy có phụ âm đầu viết dưới dạng thức các con chữ khác nhau.
Về phân biệt từ ghép tổng hợp và từ ghép phân loại;
Từ ghép tổng hợp: Giữa các tiếng có quan hệ đẳng lập, mang tính tổng hợp, khái quát.
Từ ghép phân loại: Có yếu tố cụ thể hóa, cá thể hóa nghĩa cho yếu tố kia.
Lưu ý một số từ tùy từng ngữ cảnh mà xếp khi là từ ghép tổng hợp, khi là từ ghép phân loại . Ví dụ: từ “ sáng trong” trong câu: “ Một tấm lòng sáng trong như ngọc” là từ ghép tổng hợp. Có thể đổi thành “ trong sáng”. Nhưng trong câu “ Nhớ mua bóng đèn sáng trong đừng mua bóng đèn sáng đục” thì “ sáng trong” ở đây là từ ghép phân loại.
b.3.2/Từ chia theo từ loại thì là danh từ, động từ, tính từ:
a/ Danh từ:
Có nhiều loại: danh từ chung, danh từ riêng…
– Danh từ riêng: là tên gọi riêng của một loại sự vật.
VD: Võ Thị Sáu, núi Trường Sơn…
– Danh từ chung: là tên gọi chung của một loại sự vật.
VD: Học sinh, công nhân, thành phố…
– Danh từ cụ thể: chỉ những sự vật mà ta có thể nhận ra được bằng giác quan (nhìn, nghe,ngửi, thấy, đếm được…)
VD: Nhà, tủ …
– Danh từ trừu tượng: chỉ những sự vật mà ta nhận ra được bằng suy nghĩ chứ không phải bằng các giác quan.
VD: Niềm vui, đạo đức, thái độ…
Trong câu, danh từ (Đứng một mình hoặc kèm theo các từ phụ thuộc) có thể làm nhiều chức vụ khác nhau: Làm chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ, định ngữ, bổ ngữ.
b/Động từ:
– Động từ chỉ hoạt động hay trạng thái của người, sự vật.
VD: Ngủ, chạy…
* Có hai loại động từ:
– Động từ chỉ trạng thái, hoạt động do người hay sự vật thực hiện, không ảnh hưởng tới người hay sự vật khác gọi là động từ nội động.
VD: Em bé ngủ.
– Động từ chỉ hoạt động của người hay sự vật thực hiện có ảnh hưởng đến người hay sự vật khác gọi là động từ ngoại động
VD: Bác nông dân đang gặt lúa.
Các động từ: có, là, bị, được…
– Động từ “bị”và “được” chỉ trạng thái tiếp thu
– Động từ “có” chỉ trạng thái tồn tại hặc sở hữu
– Động từ “là” chỉ được dùng trong câu giới thiệu , nhận xét, đánh giá.
c/Tính từ:
* Tính từ là từ chỉ tính chất của người, loài vật, đồ vật, cây cối như: màu sắc, hình thể, khối lượng, kích thước, dung lượng, phẩm chất…
Ví dụ : – Xanh, đỏ, xanh biếc, đỏ thắm (chỉ màu sắc)
– Vuông, tròn, thon (chỉ hình thể)
– To, nhỏ,dài, ngắn…(chỉ kích thước)
– Nặng, nhẹ, nhiều, ít…(chỉ khối lượng, dung lượng)
– Tốt, xấu, thông minh…(chỉ phẩm chất)
* Có hai loại tính từ:
-Tính từ chỉ tính chất chung, không có mức độ:
Ví dụ: Xanh, đỏ, dài, tốt…
– Tính từ chỉ tính chất có xác định mức độ hoặc có tác dụng gợi tả hình ảnh, cảm xúc.
Ví dụ: Xanh biếc, gầy nhom, chi chít…
d/ Đại từ:
– Đại từ dung để thay thế cho danh từ,động từ hoặc tính từ trong câu.
Ví dụ: Cú chẳng có tổ,nó phai sống trong những hốc cây tăm tối.
-Trong giao tiếp người ta có thể dùng đại từ để xưng hô. Đó là đại từ chỉ ngôi. các đại từ chỉ ngôi thường dùng là :
Ngôi thứ nhất: Tôi, chúng tôi, tao, chúng tao
Ngôi thứ hai : mày , chúng mày…
Ngôi thứ ba : nó, chúng nó …
* Danh từ chỉ người cùng thường được dùng trong xưng hô như đại từ chỉ ngôi.
VD: anh , chị , ông , bà
e/ Số từ – Phó từ – Từ chỉ quan hệ – Từ cảm:
* Số từ là từ chỉ số lượng hoặc thứ tự.
– Chỉ số lượng : một , hai , vài , dăm…
– Chỉ thứ tự : thứ hai , thứ tư…
* Phó từ : là những từ đi kèm danh từ, động từ , tính từ để bổ sung một số ý nghĩa cho các từ ấy.
VD:Các môn học, rất giỏi, đẹp lắm , khoảng bốn mươi kg
PT PT PT PT
* Từ chỉ quan hệ (quan hệ từ , từ nối)
Từ chỉ quan hệ là từ dùng để nối các từ trong câu, các vế câu trong một câu ghép …
VD: Nam và Bình đi học.
Nam lười học nên bạn bị điểm kém.
b.3.3/ Làm giàu vốn từ hay luyện kĩ năng nắm nghĩa từ và sử dụng từ cho HS:
– Yêu cầu HS giải nghĩa từ ngữ hay thành ngữ . Ví dụ: Em hiểu thành ngữ “ Gió chiều nào che chiều ấy” là thế nào? Lao động trí óc là gì?
– Cho những từ có cùng yếu tố cấu tạo: Ví dụ phân biệt nghĩa của mẹ đẻ, mẹ nuôi, mẹ kế, mẹ ghẻ…
– Yêu cầu HS kể ra các từ theo chủ đề:
– Yêu cầu phân loại từ theo nhóm nghĩa và đặt tên cho nhóm.
– Dạng đề sửa lỗi dùng từ sai;
– Đặt câu, viết đoạn văn với từ cho sẵn:
– Điền từ vào chỗ trống.
Và nhiều dạng khác nữa, giáo viên phải nắm chắc, cho HS được tiếp cận nhiều lần thì bài kiểm tra mới đạt hiệu quả cao.
b.3.4/ Giúp học sinh nắm vững kiến thức, kĩ năng ngữ pháp:
Trong các bài học trên lớp phần ngữ pháp thường chiếm số điểm cao.
Các dạng đề và những điều cần lưu ý cho HS:
a/ Khái niệm câu và bản chất của câu:
Các em thường nhầm trạng ngữ là câu, nhầm ngữ danh từ là câu, thường đặt câu thiếu thành phần. Vì vậy cần tập trung vào các dạng bài tập:
– Trong các ví dụ sau, ví dụ nào đã thành câu? Ví dụ nào chưa thành câu? Vì sao?Chữa lại cho đúng.
– Chữa câu sai bằng 2 cách.
b/ Cấu tạo ngữ pháp của câu, các thành phần câu:
Đó là các dạng bài tập: Yêu cầu HS chỉ ra các thành phần của câu cho sẵn.
Yêu cầu HS tìm bộ phận chính, bộ phận phụ của câu.
Yêu cầu HS kết hợp các thành phần câu.
Dạng mở rộng nòng cốt câu bằng cách thêm các thành phần phụ.
c/ Kiến thức về dấu câu và kĩ năng sử dụng dấu câu.
Dạng cho một đoạn văn không có dấu câu yêu cầu HS tự đánh dấu câu và chỗ thích hợp
Dạng chữa lại những chỗ đã đặt dấu câu không đúng.
d/ Kiến thức về từ loại, kĩ năng xác định từ loại:
Dạng yêu cầu HS tìm danh từ, động từ, tính từ trong câu, đoạn văn…
b.4 . Dạy cảm thụ văn học:
Dạy cảm thụ văn học là một vấn đề khó khăn vất vả vì đây là phần mới mẻ đối với học sinh nên đòi hỏi giáo viên phải thật tận tâm để giúp các em hiểu, cảm nhận và liên tưởng để tiếp nhận tác phẩm qua những câu văn, câu thơ, đoạn thơ…Để có được điều đó thì giáo viên là người gợi mở dẫn dắt cho sự tiếp xúc của HS với tác phẩm tốt.
Hoạt động của giáo viên chỉ có tác động bổ trợ cho cảm xúc thẩm mỹ nảy sinh. cần tôn trọng suy nghĩ, cảm xúc thực, ngây thơ của trẻ và nâng chúng lên ở chất lượng cao hơn.
Ví dụ: Hãy chỉ ra cái đúng và hay của sự so sánh trong câu thơ sau:
Bà như quả ngọt chín rồi
Càng thêm tuổi tác, càng tươi lòng vàng.
(Võ Thanh An)
Đúng vì bà sống đã lâu, tuổi đã cao giống như quả ngọt chín rồi – đều phát triển đến độ già dặn, có giá trị cao.
Hay vì hình ảnh đưa ra làm chuẩn để so sánh quả ngọt chín rồi gợi sự suy nghĩ, liên tưởng đẹp và giàu ý nghĩa về bà: Có tấm lòng thơm thảo, đáng quý, có ích cho cuộc đời, đáng nâng niu trân trọng.
Cảm thụ văn học có rấy nhiều dạng.Để giúp HS cảm thụ được tác phẩm, giáo viên cần có hệ thống câu hỏi, bài tập liên tưởng, tưởng tượng, đó là những câu hỏi về ý nghĩa của tác phẩm giúp HS hiểu mục đích thông báo của văn bản, đánh giá nhân vật, thái độ, tình cảm, tư tưởng của tác giả, đánh giá giá trị nghệ thuật những từ ngữ hình ảnh cấu tứ gây ấn tượng.
b.5/ Dạy tập làm văn:
Để làm được bài văn hay người giáo viên cần hướng cho các em có một ý tưởng cụ thể về đề bài đã cho. Điều quan trọng ở các em là vốn sống, vốn văn học, khả năng cảm thụ tốt, giàu cảm xúc và điều đặc biệt trí tưởng tượng phong phú. Học sinh phải thể hiện cảm xúc suy nghĩ của mình bằng ngôn ngữ nói và viết tạo thành những câu văn, bài văn hay.
Quá trình viết một bài văn thật khó nên cần phải có sự chuẩn bị kĩ để bài vă đạt hiệu quả. Bên cạnh đó giáo viên cần phải bám sát yêu cầu của đề để đánh giá thực chất và tìm ra những điểm yếu cần khắc phục đồng thời cũng cần phát huy ưu điểm để các em học tập.
Tải miễn phí đầy đủ nội dung tại đây