Những biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt phân mônTập làm văn

Những biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt phân mônTập làm văn

I.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Sinh thời, Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định:

“Tiếng Việt của chúng ta rất giàu. Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp. Giàu bởi kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân ta lâu đời và phong phú. Đẹp bởi tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp. Hai nguồn của cái giàu, cái đẹp ấy là ở chỗ Tiếng Việt là tiếng nói của nhân dân, đầy tình cảm, màu sắc và âm điệu; hồn nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý nghĩa; đồng thời,nó là ngôn ngữ của văn học mà những nhà thơ lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… và những nhà văn, nhà thơ ngày nay ở miền Bắc và miền Nam đã nâng lên đến trình độ rất cao về nghệ thuật”

                                                                     (Tạp chí Học tập, số 4 – 1966)

Trong thời kỳ hiện đại hoá – công nghiệp hoá đất nước hiện nay, có những thay đổi quan trọng về kinh tế – xã hội, trong giáo dục đã đặt ra những yêu cầu mới trong việc dạy tiếng nói chung, tiếng mẹ đẻ nói riêng. Làm thế nào để việc dạy Tiếng Việt trở thành một công cụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội, phát triển giáo dục?. Đó là phải thực hiện được hai chức năng của ngôn ngữ trong việc dạy Tiếng Việt: chức năng tư duy và chức năng giao tiếp.

Trong công tác giáo dục ở bậc tiểu học, muốn thực hiện tốt hai chức năng trên, trước hết là phải rèn luyện cho học sinh các kỹ năng: nghe, đọc, viế, nói một cách thông thạo, nhuần nhuyễn. Một trong các phân môn quan trọng của môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học là phân môn Tập làm văn. Đây là một phân môn có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết với các phân môn khác trong môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học..

Phân môn Tập làm văn là một phân môn có tính chất thực hành: Rèn cho học sinh các kỹ năng nói và viết, trên cơ sở kỹ năng quan sát, cảm nhận thế giới xung quanh với trí tưởng tượng sinh động, phong phú.

Học tốt phân môn Tập làm văn là điều kiện để học tốt các môn học khác; Hơn nữa, nó cũng là điều kiện để giúp học sinh có kỹ năng giao tiếp tốt bằng thư từ, bằng văn bản, mang đậm dấu ấn cá nhân.

Chính vì vây, nhiệm vụ cơ bản của phân môn là:

-Trang bị kiến thức và rèn luyện các kỹ năng làm văn.

-Góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy lô – gich, tư duy hình tượng, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ, hình thành nhân cách cho học sinh.

-Thông qua đó, còn giáo dục và bồi dưỡng tình cảm yêu Tiếng Việt, chữ Việt, góp phần “Giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Viêt”. Và càng yêu quê hương, đất nước, con người Việt Nam.

Tập làm văn là một phân môn có vị trí quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của môn Tiếng Việt, là rèn luyện và phát triển năng lực viết. Phân môn này được dạy như một môn học trong nhà trường tiểu học.

Thực tế hiện nay, với tốc độ phát triển công nghệ thông tin, qua các mạng xã hội đã và đang hình thành một thứ ngôn ngữ “Chat”. Trong khi đó, tình trạng viết sai lỗi chính tả, bất chấp, tuỳ tiện về nội dung và ý niệm ở học sinh, xảy ra rất nhiều. Nếu không kịp thời uốn nắn, sửa chữa sé ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình học tập của học sinh. Rồi trong tương lai, các em sẽ tạo ra những văn bản có chất lượng kém, và đương nhiên sẽ ảnh hưởng lớn đến năng lực giao tiếp đối với cộng đồng, với xã hội, mà các em ít có cơ hội để sửa sai, để diễn đạt hoăc trình bày nguyện vọng, ý chí của bản thân.

Là một giáo viên tiểu học, thực hiện trọng trách giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ – Những chủ nhân tương lai  của đất nước – tôi thực sự băn khoăn, trăn trở để tìm ra những biện pháp dạy học nói chung, và đối với phân môn Tập làm văn nói riêng, để giúp các em học sinh có được kỹ năng xây dựng, hình thành các văn bản Tiếng Việt. Cũng chính là giúp cho các em tự tin hơn và học tập tốt hơn. Mai này lớn lên, các em đã có những nền móng cơ bản, vững chắc để lĩnh hội những tri thức của ông cha, của nhân loại, thực sự là những chủ nhân của đất nước.

Vậy thì làm thế nào để giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn, để thực hiện mục tiêu dạy học của mình?. Tôi đã cố gắng học hỏi, tham khảo qua các tài liệu cũng như ý kiến của các đồng nghiệp, và xây dựng cho mình một chương trình hành động, thực hiện các giải pháp hữu hiệu để giúp các em hình thành kỹ năng làm văn, giúp cho các em mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ, hình thành nhân cách. Để rồi các em học tập tốt hơn, yêu Tiếng Việt hơn. Như vây, là bản thân đã có thể góp phần nhỏ bé của mình vào việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.

Sau đây, tôi xin mạnh dạn trình bày những giải pháp mà tôi đã thực hiện thành công với đề tài có tựa đề là: “Những biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt phân môn Tập làm văn”

Trong quá trình thực hiện đề tài, cũng như việc biên tập, trình bày, sẽ không tránh khỏi những sai sót, khuyết điểm; rất mong được sự quan tâm góp ý, trao đôi kinh nghiệm của các thầy cô, các bậc phụ huynh, để đề tài này thực sự đạt được hiệu quả mong muốn.

b.Nội dung và các biện pháp thực hiện cụ thể:

  1. Luyện đọc diễn cảm để giúp học sinh dễ dàng cảm nhận được giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của các tác phẩm văn học:

Muốn cho học sinh có được kỹ năng cảm thụ tốt nội dung và giá trị nghệ thuật của các tác phẩm văn học, trước hết là phải giúp học sinh đọc tốt qua giọng đọc diễn cảm. Điều này tôi thực hiện thường xuyên trong các tiết Tập đọc.

Giọng đọc mẫu của giáo viên là một nhân tố quyết định để luyện đọc diễn cảm cho học sinh. Sử dụng giọng đọc diễn cảm, ngắt hơi, nghỉ hơi đúng quy tắc và hướng dẫn cho các em nhận biết các từ, các nhóm từ thể hiện ý chính của câu văn, đoạn văn để thể hiện cách nhấn giọng ở các từ, các nhóm từ đó.

Ví dụ:

-Trong bài “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu”: Khi hướng dẫn đọc câu văn diễn tả hành động của Dế Mèn, phải lưu ý các từ cần nhấn giọng như:

  • Tôi quay phắt lưng, phóng càng đạp phanh phách ra oai.

(Biểu hiện động tác nhanh, dứt khoát( phắt), mạnh (phóng))

Và lưu ý học sinh: Giọng đọc cần thể hiện sự khác biệt ở những câu văn miêu tả vớí những câu văn thuật lại lời nói của Dế Mèn.

-Hoặc trong bài “Tre Việt Nam” cần hướng dẫn học sinh đọc nhấn giọng (theo cách ngân dài hơn) những từ ngữ khẳng định hoặc mang rõ sắc thái cảm xúc: “không đứng”, “khuất mình”, “nguyên cái gốc”, “đâu chịu mọc cong”, “lạ thường”, “có gì lạ đâu”.

Cách dùng biện pháp điệp từ, điệp ngữ (mai sau, xanh) để thể hiện sự kế tiếp liên tục của các thế hệ, cần đọc ngắt nhịp đều đặn ở sau các dấu phẩy kết thúc mỗi dòng thơ, tạo ra âm hưởng nối tiếp giữa các từ ngữ như các dấu luyến trong âm nhạc:

“Mai sau,

Mai sau,

Mai sau,

Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh.”

2.Cung cấp vốn từ  và cách sử dụng từ ngữ phù hợp với  ngữ cảnh:

Từ ngữ là đơn vị cơ bản để cấu tạo nên câu. Muốn có câu văn, đoạn văn, bài văn hay, trước hết phải hiểu đúng nghĩa của từ, thì mới sử dụng đúng  ngữ cảnh, và diễn đạt đúng, diễn đạt hay nôi dung, ý kiến của mình.

Thế nhưng, vốn từ của các em còn quá ít ỏi. Hơn nữa, lại không hiểu rõ nghĩa của từ mình muốn sử dụng để diễn đạt qua lời nói, qua viết văn. Và chắc chắn, các em sẽ hình thành những câu văn, lời nói có ý nghĩa không rỏ ràng, nhiều khi rất “tối nghĩa”

Vì vậy, tôi thực hiện việc cung cấp vốn từ thông qua các tiết học môn Tiếng Việt, đặc biệt là ở phân môn Luyện từ và câu.

Tuỳ theo từng chủ điểm mà tôi chú trọng đến viêc cung cấp vốn từ và giúp học sinh sử dụng các từ đã học để đặt câu, chuyển các từ đó vào vốn từ tích cực.

*Đối với từ Hán Việt thì việc giúp hiểu rõ nghĩa của từ là công việc vô cùng quan trọng, để các em biết nhận diện nghĩa, phân biệt nghĩa các từ cùng âm, nhưng được ghép với các từ khác nhau thì có thể có nghĩa khác nhau. Có như vậy, học sinh mới biết cách sử dụng vốn từ đã học vào thực tế giao tiếp, cũng như thực hành bài làm văn của mình mới sát nghĩa và diễn đạt tốt nối dung cần thể hiện.

Ví dụ:

-Trong bài: “Mở rộng vốn từ: Trung thực – Tự trọng”, thông qua các phương pháp dạy học, tôi đã cung cấp cho học sinh hiểu rõ nghĩa của từ ‘trung’ trong từng ngữ cảnh cụ thể, như:

+”Trung” có nghĩa là “một lòng, một dạ” (trung thành. trung thực. trung nghĩa…)

+”Trung” có nghĩa là “ở giữa” (trung thu. trung điểm. trung tâm}

Cách dễ nhận biết nhất là: Tiếng “trung” ở trên thường ghép với tính từ, còn tiếng “ trung” ở dưới thường ghép với danh từ, (nhưng chú ý.các từ loại ở đây cũng là từ Hán Việt).

*Còn đối với các từ Thuần Việt, ngoài việc cung cấp cho học sinh những kiến thức mới trong các tiết dạy phân môn Luyện từ và câu, tôi còn lưu ý cho các em một số điều sau:

*Đối với các từ ghép đẳng lập, thì các tiếng có thể hoán đổi vị trí cho nhau.

Ví dụ: “Mơ ước” – “Ước mơ”.

                       “Vui tươi” – “Tươi vui”…

Chúng có nghĩa hoàn toàn giống nhau, nhưng khi sử dụng để viết văn cần chú ý ngữ cảnh và viết sao cho bắt vần, bắt nhịp.

*Khi cung cấp vốn từ cho học sinh, tôi đăc biệt chú ý đến việc dùng các kênh hình (tranh ảnh hoặc đoạn video clip ngắn), để giúp các em nắm được nghĩa của từ một cách trực quan, nhất là đối với các từ tượng hình, tượng thanh. Nhờ đó mà khi thực hành đặt câu, các em đã làm tốt bài tập theo yêu cầu. Và dần dần các em  có

kỹ năng viết hay, mạch lạc, súc tích, giàu hình ảnh… cho bài tập làm văn của mình.

*Đối với kiểu câu có kết cấu phức tạp, thì có thể dùng biện pháp đảo ngữ, đảo từ để nhấn mạnh nội dung cần diễn đạt, và làm cho đoạn văn, bài văn thêm phong phú, sinh động. Có khi nâng được tầm giá trị của câu văn bằng sự khái quát, trừu tượng hoá nhờ sự biến đổi linh hoạt mà gây nên hiệu ứng bất ngờ…

Ví dụ:

-Mùa thu, lá vàng rơi xào xạc.

-Mùa thu, lá vàng xào xạc rơi.

-Lá vàng mùa thu, rơi xào xạc.

-Lá vàng rơi xào xạc: Mùa thu.

-Lá vàng xào xạc rơi, mùa thu.

-Rơi xào xạc, lá vàng mùa thu.

-Xào xạc rơi, lá vàng mùa thu.

-Xào xạc rơi, mùa thu lá vàng.

-Xào xạc, mùa thu, lá vàng rơi,

-Mùa thu xào xạc, lá vàng rơi.

-Lá vàng xào xạc, mùa thu rơi.

-Xào xạc lá vàng: Mùa thu rơi.

( Hai câu cuối có tính trừu tượng hoá, cấp độ vận dụng nâng cao, có sử dụng kỹ thuật dấu câu).

3.Hướng dẫn học sinh lập sổ tay: sưu tầm, tích luỹ “vốn liếng” viết văn cho bản thân.

Những câu văn hay, những đoạn văn hay đã được các em thích thú sưu tầm, ghi vào sổ tay dưới sự hướng dẫn, gợi ý của giáo viên. Nó có thể hiển hiện trong từng tiết học, hoặc qua sách báo, hoặc qua sự giao tiếp với bạn bè, với người thân hàng ngày trong cuộc sống.

Thường là trong các tiết dạy môn Tiếng Việt, tôi đã hướng dẫn cho các em tìm chọn những câu văn, câu thơ hay, giàu hình ảnh và sức biểu cảm để các em ghi chép vào sổ tay. Có thể cho các em trao đổi, bình chọn một cách tích cực để khắc sâu hơn giá trị biểu cảm của các câu thơ, câu văn đó.

Ví dụ:

Con đen huyền, con trắng tuyết, con đỏ son, chân dịu dàng chùm đuôi cong l­ướt th­ướt liễu rủ.”

       ( Đ­ường đi Sa Pa – Nguyễn Phan Hách; Tiếng Việt 4, tập 2, trang 102)

                                  “Mẹ là đất nước, tháng ngày của con”

                                  (Mẹ ốm – Trần Đăng Khoa;Tiếng Việt 4, tập 1, trang 43)

“Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,

 Sương trắng rỏ đâu cành như giọt sữa…”

(Chợ Tết –  Đoàn Văn Cừ. Tiếng Việt 4, tập 2, trang 37)

4.Tổ chức các trò chơi nhanh để luyện cho học sinh biết chọn từ và điền từ thích hợp

Ngôn ngữ Tiếng Việt thật sự phong phú, giàu, đẹp ở tên gọi, ở mức độ biểu thị cảm xúc và sắc thái. Bởi vậy trong cách dùng từ đúng cũng thể hiện được phong cách, tình cảm của người viết. Giúp các em chọn từ để viết đúng, thông qua cách quan sát, để diễn đạt đúng nội dung và cảm nhận của mình, đó là điều tôi hằng trăn trở.

*Với những trò chơi gọi tên nhanh, điền từ nhanh đã làm cho học sinh rất hứng thú, ghi nhớ nhanh các từ mà giáo viên muốn cung cấp vốn từ cho các em.

Ví dụ:

Điền từ còn thiếu vào chỗ chấm chấm:

-Ngựa đen gọi là: Ngựa ….. (Ngựa ô)

-Mắt đen gọi là: Mắt …. (Mắt huyền).

-Chó đen gọi là: Chó …. (Chó mực).

Hoặc:

-Màu cờ Tổ quốc đỏ …. (thắm).

-Quả cà chua chín đỏ …. (ong)

-Mặt gã say rượu đỏ … (gay).

*Tôi còn gợi ý và giúp cho học sinh tự chọn từ và điền vào các câu cho sẵn, sau đó cho cả lớp trao đổi, nhận xét và có thể nêu ý nghĩ của mình (dưới dạng câu hỏi mở);

Ví dụ:

Cho các từ; xanh thẳm; cao vút,; vời vợi; bồng bềnh; lững lờ; chầm chậm.

Em hãy điền vào câu sau cho hoàn chỉnh và nói lên suy nghĩ của mình: Vì sao em chọn như vậy?

-Bầu trời ……(1)……., những đám mây trắng……(2)………….trôi.

(1): Có thể điền được một trong các từ: cao vút,; vời vợi; bồng bềnh

(2): Có thể điền được một trong các từ sau: ,; vời vợi; bồng bềnh; lững lờ

Và như vậy, các em sẽ lập được rất nhiều câu có nội dung biểu cảm khác nhau

  1. Củng cố kiến thức, kỹ năng nhận dạng các kiểu câu và từng bước nâng cao cách viết câu hoàn chỉnh:

*Việc làm thường xuyên mà mang lại hiệu quả cao nhất của việc củng cố kiến thức đã học về các kiểu câu cho học sinh, chính là sự giao tiếp giữa thầy và trò trong khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, xây dựng bài, trong tất cả các tiết học.

Thái đô, ngôn ngữ của giáo viên, cũng là sự chuẩn mực để cho học sinh bắt chước và làm theo. Vì vậy, khi hướng dẫn, giảng dạy cho học sinh trên lớp hay trong các hoạt động giáo dục khác, tôi luôn gợi ý, dẫn dắt, hướng dẫn hoặc nhận xét, đánh giá (bằng lời nói hoặc viết vào vở) bằng những câu (có cú pháp hoàn chỉnh) và cởi mở, thân thiện.

Ví dụ:

-Em là một học trò ngoan. (Kiểu câu kể Ai là gì?).

-Các em hãy giúp thầy giải bài tập này. (Câu cầu khiến.).

-Câu trả lời của em rất hay. (Kiểu câu kể Ai thế nào?)

Với các trường hợp học sinh phát biểu hoặc trả lời bằng những câu trống không, cộc lốc thì tôi nhẹ nhàng nhắc nhở, gợi ý cách chỉnh sửa câu nói cho phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp.

*Trong các tiết luyện tập để củng cố kiến thức cho học sinh, tôi còn tổ chức các hoạt động ngoài trời theo các nhóm tổ, hướng dẫn các em cách quan sát những sự vật, cảnh quan sát thực tế. Rồi các em thảo luận và nêu cảm nhận của mình. Dưới sự gợi ý của giáo viên, các em ghi chép lại những khám phá mới về thế giới khách quan. Và vận dụng những kiến thức đã học để có thể phản ảnh sự vật, đồ vật bằng những câu văn giàu hình ảnh, sống động như chính bản chất thật của chúng.

Ví dụ:

-Cho học sinh quan sát thực địa, và thảo luận, nêu nhận xét, cảm nhận của mình. Tiếp đó, giáo viên đúc kết, đánh giá những cảm nhận đẹp. Cuối cùng, tôi yêu cầu hãy viết một vài dòng để miêu tả sự vật mà mình vừa quan sát được. Có thể, tôi nêu ra một câu mẫu và yêu cầu học sinh điền thêm từ cho hay hơn, sống động hơn, như:

+Hoa hồng đẹp (lộng lẫy), cánh hoa đỏ (thắm), mịn nh­ư( nhung)

+Đôi mắt của chú mèo như (hai hòn bi ve, thật là (dễ thương).

Với dạng bài này, không nên cứng nhắc, máy móc, mà phải tạo cho các em sự thoải mái, đa dạng. Tất cả các em đều có thể nêu được đáp án của mình. Nhờ vậy, những em học sinh có năng lực yếu kém, trung bình cũng thể hiện, phát huy được năng lực bản thân, đồng thời cũng có thể học hỏi được những cách làm hay của các bạn khá giỏi.

6.Giúp học sinh luyện viết câu có kết cấu từ đơn giản đến phức tạp và xây dựng đoạn văn có nội dung ý nghĩa hoàn chỉnh:.

*Trong các tiết học Luyện từ và câu lớp 4, học sinh được cung cấp kiến thức về các kiểu câu: câu kể, câu cảm, câu hỏi, câu cầu khiến…. Kiểu câu kể gồm có ba dạng là: Câu kể Ai là gì?; câu kể Ai làm gì?; câu kể Ai thế nào?. Kết cấu đơn giản của các kiểu câu này thường có một cụm chủ vị. Từ kiểu câu kể có thể biến thành câu hỏi , câu cảm hoặc ngược lại tuỳ theo mục đích sử dụng.

Trong các tiết luyện tập, ôn tập các kiểu câu, tôi đã tổ chức cho học sinh chia thành nhóm. Các nhóm thi đua đặt câu với hình thức mỗi nhóm mỗi kiểu câu. Nhóm thứ nhất đặt câu kể và làm tiền đề cho nhóm thứ hai đặt câu hỏi, nhóm thứ ba đặt câu cảm. Đương nhiên, các câu do các nhóm đưa ra đều phải là câu ít nhất phải có đủ thành phần chính (chủ ngữ – vị ngữ).

Ví dụ:

Nhóm 1 đặt câu:       Tiếng trống trường/ rộn rã.     (Câu kể Ai thế nào?)

                                             CN                 VN

Nhóm 2:                   Tiếng trống trường/ rộn rã quá!    (Câu cảm)

                                             CN                        VN

Nhóm 3: :                   Tiếng trống trường/ rộn rã quá phải không?.    (Câu hỏi)

                                             CN                 VN

Các em tỏ ra rất hứng thú với trò chơi này. Các em có ý thức tổ chức kỹ năng hoạt động nhóm và thi đua giữa các nhóm với nhau. Nhờ vậy, mà củng cố, khắc sâu hơn kiến thức đã học.

*Khi học sinh đã nắm vững kết cấu của câu, Tôi khéo léo tích hợp và nâng dần cấp độ vận dụng, để hướng dẫn cho các em viết các câu có kết cấu phức tạp hơn.

-Với các dạng câu có 1 chủ ngữ – nhiều vị ngữ; nhiều vị ngữ – 1 vị ngữ; nhiều chủ ngữ – nhiều vị ngữ (không có thành phần phụ), tôi định hướng, gợi ý cho học sinh xác định cho được những yếu tố chung, đồng nhất của các thành phần chính trong câu. Lúc đó, các em mới xây dựng được những câu đủ kết cấu thành phần và diễn dạt hết nội dung cần trình bày.

Ví dụ:

+Trong bài thơ “Mẹ ốm”, cậu bé Trần Đăng Khoa đã làm những việc gì?

Cậu bé Trần Đăng Khoa /đã ngâm thơ, kể chuyện, múa cadiễn kịch.

                  CN                         VN             VN             VN          VN

(Câu có 1 CN và nhiều VN: Một đối tượng có nhiều hoạt động trong một khoảng thời gian)

Trong chuyện đọc “Trong quán ăn “Ba Cá Bống”, những ai đã biết được chú bé gỗ đang trốn trong bình đất?

Cáo A – li – xamèo A – di – li – ô/ biết được chú bé gỗ nấp ở trong bình đất.

          CN                       CN                                            VN

(Câu có nhiều CN và 1 VN: Nhiều đối tượng có cùng một hoạt động, trạng thái)

-Khi học sinh đã nắm vững cách viết câu đủ kết cấu thành phần chính, thì các em được cung cấp tiếp về thành phần phụ bổ sung ý nghĩa cho câu (trạng ngữ).

Từ nội dung kiến thức cơ bản trong các tiết học Luyện từ và câu, học sinh được gợi mở để xác định được các nhân tố trong thành phần chính của câu cần bổ sung ý nghĩa gì để cho nội dung đầy đủ, sáng sủa, dễ hiểu, dễ cảm thụ hơn.

Trong các tiết học môn Tiếng Việt, giáo viên có thể khéo léo đặt các câu hỏi gợi mở để học sinh xác định được thời gian, nơi chốn, nguyên nhân, mục đích của hoạt động, trạng thái của các chủ thể có ở trong câu. Đó chính là thêm thành phần trạng ngữ cho câu. Sau đó, các em có thể viết lại câu trả lời của mình và chỉ ra chính xác bộ phận trạng ngữ có ở trong câu.

Đặc biệt trong các tiết học Tập làm văn: Luyện tập xây dựng đoạn văn trong bài văn miêu tả cây cối (miêu tả con vật). Các em cần xác định cho được đối tượng cần tả có từ lúc nào, ở đâu, của ai để giới thiệu trong phần mở bài.

Ví dụ:

Với đề bài: “Em hãy tả cây phượng vĩ ở sân trường”; học sinh xây dựng đoạn văn mở bài bằng cách trả lời các câu hỏi sau:

-Cây cần tả là cây gì? (Cây phượng vĩ)

-Cây phượng vĩ có ở đâu? (Trên sân trường)

-Cây đó do ai trồng? (Do thầy cô, cha mẹ học sinh, hay các anh chị lớp trước…)

-Cây đó được trồng từ lúc nào? (Cách đây ba hay năm năm – Lâu lắm rồi…)

Sau đó, các em sẽ kết nối các ý vừa được xác lập để tạo thành một đoạn văn liền mạch: “Từ khi bước chân vào lớp Một, em đã thấy hai hàng phượng vĩ đứng sừng sững ở sân trường. Không biết cây do ai trồng, nhưng em nghĩ chắc là được trồng từ lâu rồi, vì trông vóc dáng của nó đã cũ kỹ, già nua lắm. “

Cũng tương tự như vậy, khi miêu tả một đối tượng, giáo viên sẽ định hướng cho học sinh trình tự quan sát theo chiều thời gian hay không gian, để xây dựng dàn ý, câu văn, đoạn văn đầy đủ ý nghĩa, liền mạch và sống động.

7.Giúp học sinh tiếp cận với các biện pháp nghệ thuật tu từ

Trong nội dung chương trình tiểu học, các em dã được làm quen với các tác phẩm văn học thiếu nhi, chứa đựng các biện pháp nghệ thuật tu từ, mang tính hồn nhiên, giàu hình ảnh, đầy màu sắc sinh động. Nếu người giáo viên khai thác được giá trị nghệ thuật của các văn bản, xây dựng môi trường thân thiện, khơi gợi sự hứng thú, sẽ giúp học sinh cảm nhận và lĩnh hội được các kiến thức về các biện pháp nghệ thuật trong Tiếng Việt.

Với trình độ nhận thức của học sinh tiểu học nói chung, và lớp 4 nói riêng, việc cung cấp kiến thức về dạng này, người thầy cần khéo léo khơi gợi được năng lực quan sát, sáng tạo của từng cá nhân của người học, để các em có thể bộc lộ được cái tôi, cái riêng biệt trong những “tác phẩm” của chính mình.

Và các em thật sự hứng khởi hơn, dễ lĩnh hội hơn khi tiép cận các tác phẩm của các nhà văn thiếu nhi như: Tô Hoài, Đoàn Giỏi, Trần Đăng Khoa…

Theo tôi, hai biện pháp nghệ thuật phù hợp nhất với lứa tuổi các em là: biện pháp so sánh và biện pháp nhân hoá.

a.Dạy biện pháp so sánh:

a1. Dạy cách nhận biết câu có hình ảnh so sánh:

Trước hết, tôi đã giúp cho các em nhớ lại những bài thơ, bài văn giàu hình ảnh so sánh mà gần gũi, hồn nhiên của lứa tuổi thiếu nhi; có trong chương trình sách giáo khoa tiểu học.

Tiếp đó, tôi gợi ý cho các em cách nhận biết đơn giản nhất có trong các câu văn, câu thơ đã học là: Hai đối tượng (hay hai sự vật) được so sánh thông qua từ “như” (như là, trông như, giống như).

Ví dụ:

_-Sương trắng rõ đầu cành như giọt sữa (Chợ Tết – Đoàn Văn Cừ)

-Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm. Gió đưa hương thơm ngát như hương cau, hương bưởi toả khắp khu vườn. (Sầu riêng – Mai Văn Tạo)

-Lá xanh um mát rượi ngon lành như lá me non. (Hoa học trò – Xuân Diệu)

a2.Dạy luyện viết câu có hình ảnh so sánh:\

Muốn cho học sinh luyện viết được những câu văn có hình ảnh so sánh, người thầy phải biết khơi gợi sức liên tưởng phong phú, ngộ nghĩnh theo đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi. Thông qua hình ảnh thật của đối tượng, của sự vật để dùng hình ảnh so sánh vừa hồn nhiên, vừa hợp lý và đầy sức sáng tạo.

Nêu tên sự vật và hướng dẫn học sinh suy nghĩ, liên tưởng đến những hình ảnh của các sự vật có thể dùng để so sánh, tuỳ theo ngữ cảnh mà tìm ý cho thích hợp, để câu văn trở nên mới mẻ hơn, sinh động hơn:

Ví dụ:

Nêu tên sự vật:

-Mặt trăng tròn như ...

Gợi ý tìm hình ảnh so sánh thông qua phương pháp thảo luận nhóm, rồi đề xuất cách giải quyết vấn đề:

Các hình ảnh mà học sinh có thể đề xuất để so sánh là:

-Mặt trăng tròn như   (+cái bánh rán ngon lành)

                                      (+cái đĩa vàng óng lơ lửng trên trời.)

                                     (+quả bóng đặt giữa sân trời.)

b.Dạy biện pháp nhân hoá:

b1. Dạy cách nhận biết câu có hình ảnh nhân hoá:

Nghệ thuật  nhân hoá  trong Tiếng Việt là một biện pháp nghệ thuật rất gần gũi với lứa tuổi của học sinh tiểu học. Các em đã được tiếp cận từ những lời ru của bà, của mẹ qua hình ảnh ảnh con cò, cánh diều, từ những câu chuyện cổ tích với các nhân vật là các con vật gần gũi, thân thiết như: chú chó, anh mèo, chị gà, cô vịt…

Ngay từ đầu chương trình tiểu học, ở lớp 1, đã có những bài thơ trong sách giáo khoa, sử dụng biện pháp nhân hoá rất dễ thương vàgần gũi với lứa tuổi thiếu nhi. Chẳng hạn như bài “Kể cho bé nghe” của Trần Đăng Khoa.

Trong chương trình Tiếng Việt lớp 4, có rất nhiều bài sử dụng biện pháp nghệ thuật này. Đó là các bài: “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” – (Tô Hoài); “Gà Trống và Cáo” – (La – phông – ten); chuyện kể “Vịt con xấu xí” v.v…

Biện pháp nhân hoá là cách sử dụng các từ ngữ chỉ hoạt động, trạng thái, tính chất, phẩm chất, đặc điểm của con người để gán cho các sự vật vô tri, vô giác (con vật, đồ vật).

Với biện pháp nghệ thuật này, người thầy chỉ cần gợi ý là các em tiếp nhận một cách dễ dàng và tích cực.

Ví dụ:

“Hay nói ầm ĩ

Là cô vịt bầu.

Hay hỏi đâu đâu

Là anh chó vện…”

                                                         (Trần Đăng Khoa}

Hoặc:

“Nhác trông vắt vẻo trên cành,

Anh chàng Gà Trống, tinh nhanh, lõi đời.

Cáo kia đon đả, ngỏ lời:

“Này anh bạn quý, xin mời xuống đây…”

                                                                       (Theo La – phông – ten)

Học sinh dễ dàng chỉ ra các từ ngữ được sử dungh để nhân hoá các con vật có trong bài. Đó là các từ được gạch chân.

b1. Dạy luyện viết  câu có hình ảnh nhân hoá:

Khi các em đã có được vốn từ tích cực, phong phú, thì việc vận dụng vốn từ để thực hiện biện pháp nhân hoá theo trí tưởng tượng ngộ nghĩnh hồn nhiên của mình.

Ví dụ

Giáo viên nêu tên các sự vật, và hướng dẫn học sinh thảo luận, tìm từ ngữ để nhân hoá các sự vật đó một cách hợp lý, tuỳ theo ngữ cảnh hiện hữu của các sự vật đó.

-Nêu tên sự vật: Mặt trời

+Ông mặt trời cười toe toét, chào đón bình minh.

+Ông mặt trời cau có rọi ánh năng ban trưa.

+Mặt trời lừ đừ, núp dần sau dãy núi.

Luyện việt câu theo phương pháp này các em cảm thấy tự tin và tích cực hơn. Với lại các em có thể so sánh để chọn cách nhân hoá sự vật  một cách hóm hỉnh . Và rồi cũng có thể tích luỹ nhiều vốn kinh nghiệm cho bản thân.

8.Dạy  viết bài văn hoàn chỉnh:

Công đoạn cuối cùng là giúp cho học sinh kết hợp hài hoà các yếu tố nội dung, nghệ thuật, cảm xúc để xây dựng đoạn văn và viết một bài văn hoàn chỉnh.

Muốn làm được điều đó, người giáo viên cần phải nghiên cứu chuẩn kiến thức kỹ năng phân môn Tập làm văn lớp 4. Dựa vào nội dung chương trình sách giáo khoa để xây dựng hệ thống câu hỏi, dẫn dắt học sinh lập dàn ý, đúng nội dung yêu cầu của đề ra, đủ bố cục; mở bài, thân bài và kết bài.

Trong mỗi đoạn văn, cần lưu ý học sinh tìm những chi tiết nổi bật để diễn đạt bằng những từ ngữ sát thực, sinh động, bằng những câu văn đầy đủ ý nghĩa. Thêm vào đó, cần phải hướng dẫn cho học sinh diễn đạt liền mạch theo hướng quan sát của bản thân: Theo trình tự không gian (Từ xa đến gần, từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong) hoặc theo trình tự thời  gian (theo mùa, theo tháng ngày hay theo quá trình sinh trưởng và phát triển của sự vật)

Nhắc nhở các em rằng: Muốn cho bài văn thật sự sống động, có sức cuốn hút người đọc, người nghe cần phải vận dụng tột các biện pháp nghệ thuật đã được học, cùng với sự thể hiện cảm xúc của mình đối với đối tượng cần tả.

Đạt được điều đó, người Thầy đã đạt được mục tiêu “ươm mầm” cho thế hệ măng non của mình. Đó là một thành công lớn trong đời làm nghề dạy học.

III.1 Kết luận:

Dạy văn là dạy người. Thật vậy, việc nâng cao chất lượng làm văn cho học sinh là một công việc kiên trì, bền bỉ và đầy nhiệt huyết của người giáo viên tiểu học.

Trước hết, người thầy giáo phải có kiến thức chuyên môn và kỹ năng sư phạm vững vàng. Thường xuyên trau dồi nghiệp vụ, học hỏi và đúc rút kinh nghiệm từ đồng chí, đồng nghiệp; tự học, tự rèn, biết vận dụng và đổi mới phương pháp dạy học theo yêu cầu của chuẩn kiến thức kỹ năng của từng khối lớp.

Người thầy còn phải biết nắm bắt, tìm hiểu kỹ tâm sinh lý của từng đối tượng, của từng lứa tuổi. Từ đó mà biết cách vận dụng các phương pháp dạy học hiệu quả.

Bên cạnh đó, người giáo viên phải có kế hoạch cụ thể. Và thực hiện các hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đăc trưng của môn Tiếng Việt tiểu học.

Cuối cùng là phải biết xây dựng một khối đoàn kết trong tập thể sư phạm nhà trường: biết cộng đồng trách nhiêm, giúp đỡ, hỗ trợ nhau, phối hợp một cách nhuần nhuyễn, nhịp nhàng vì mục tiêu cao cả của người thầy giáo: “Tất cả vì học sinh thân yêu”

Nói tóm lại, nhân tố quyết định thành công chính là người giáo viên  có tâm huyết, tràn đầy nghị lực và tình thương yêu học sinh như thương yêu đàn con của mình vậy.

Bấm vào đây để tải về

 

 

 

 

 

Copyright 2019 © Kinh nghiệm dạy học | Thiết kế bởi Web Bách Thắng