Cây bạch hạc có tên khoa học là Rhinacanthus nasutus (L.) Kurz thuộc họ Ô rô – Acanthaceae dân gian còn gọi là cây Kiến cò hay Cây lác. Là loài cây mọc dại, thường xuất hiện ở các vùng nông thôn. Bạch hạc là loại cây có sức sống tốt, dân ta hay sử dụng làm bài thuốc chữa các bệnh về xương khớp.
Về đặc điểm cây bạch hạc:
Bạch hạc là cây nhỏ mọc thành bụi, cao 1-2m, có rễ chùm. Thân non có lông mịn. Lá mọc đối, có cuống, phiến hình trứng thuôn dài, mặt trên nhẵn, mặt dưới hơi có lông mịn. Hoa nhỏ, mọc thành xâu nhiều hoa ở nách lá hoặc đầu cành hay ngọn thân. Hoa màu trắng nom như con hạc đang bay. Quả nang dài, có lông. Cây ra hoa vào tháng 8 âm.
- Bộ phận dùng làm thuốc: Lá, thân và rễ.
- Nơi sống và thu hái: Cây có nguồn gốc thuộc Ấn Độ, thường mọc hoang, sau được trồng ở nhiều nơi trong đó có miền Bắc Việt Nam. Trồng bằng gốc cây. Thu hái thân lá quanh năm, thường dùng tươi. Rễ cũng được thu hái quanh năm, dùng tươi hay phơi khô.
- Thành phần hoá học của bạch hạc: Trong rễ có hoạt chất rhinacanthin, gần giống acid chrysophanic và acid frangulic.
- Tính vị, tác dụng: Cây có vị ngọt dịu và dịu, tính bình, có tác dụng chống ho, sát trùng, chống ngứa, trừ phong thấp. Rễ có mùi hắc nhẹ, vị ngọt tựa như mùi sắn rừng.
Cây bạch hạc có các công dụng:
1. Lao phổi khởi phát, ho
2. Viêm phế quản cấp và mạn
3. Phong thấp, tê bại, nhức gân, đau xương, viêm khớp
4. Huyết áp cao.
Liều dùng 9-15g, dạng thuốc sắc. Dùng ngoài trị bệnh ecpet mảng tròn, eczema, hắc lào, lở ngứa, viêm khớp. Lấy cây lá tươi giã đắp hoặc nấu nước rửa.
Cây bạch hạc chữa viêm khớp, đau nhức khớp do phong hàn thấp:
Rễ bạch hạc 12g, củ khúc khắc (thổ phục linh) 16g, ké đầu ngựa 16g, kim ngân hoa 16g, bạch chỉ 8g, hy thiêm 16g, quế chi 8g, ý dĩ 12g, củ kim cang (tỳ giải) 12g, cam thảo nam 12g. Sắc thành nước thuốc, mỗi ngày uống 1 thang, uống trong vòng 10 đến 20 thang là khỏi bệnh thoái hóa đốt sống cổ.